Kinh Thanh Tịnh Tỳ Ni, người dịch Tỳ kheo Thích Thiện Nhơn - Phật Giáo Việt Nam
16:39 +07 Thứ tư, 01/05/2024

Kinh Thanh Tịnh Tỳ Ni, người dịch Tỳ kheo Thích Thiện Nhơn

Thứ hai - 11/06/2012 12:52
(HDPT) - Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật thuộc thành Vương xá, cùng với 8.000 vị Tỳ kheo Tăng và 12.000 vị Bồ tát, cùng với các vị Thiên tử cõi dục, cõi sắc và cõi Tịnh Cư thiên đều tập hợp đông đủ.
 

 

 

KINH THANH TỊNH TỲ NI


 

 

Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập

Việt dịch: Tỳ kheo Thích Thiện Nhơn

 

Lời nói đầu

Kinh Thanh Tịnh Tỳ Ni là một trong 6 bộ kinh thuộc Bồ tát Tạng, đó là Kinh Phạm Võng, Kinh Anh Lạc, Kinh Bồ tát Thiện Giới, Kinh Địa Trì, Kinh Ưu Bà Tắc. Trong đó, Kinh Bồ tát Thiện Giới và Địa Trì thuộc hệ tư tưởng Du Già Sư Địa Luận. Nói khác đi, là trích từ phần Bồ tát địa của Luận Du Già.

Kinh Thanh Tịnh Tỳ Ni do Tam tạng Pháp sư Cưu Ma Thập dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán vào thế kỷ thứ V TL, không có các phẩm và giới điều như các kinh thuộc hệ Bồ tát tạng. Do đó, vấn đề căn bản ở đây được định hình rõ nét trên các lĩnh vực tư tưởng như sau:

1. Nhân vật chính của kinh nầy là Thiên tử Tịch Điều Phục Âm. Có nghĩa là âm thanh phát ra từ cõi lòng thanh tịnh, do Giới luật thành tựu. Vì Giới có nghĩa là điều phục, điều luyện ba nghiệp thân miệng và ý, chế ngự thân tâm. Thân có ba là không sát sinh, không trộm cướp, không dâm dục. Tâm có ba là không tham, không sân hận, không si mê. Vì thế, cõi lòng thanh tịnh phát ra âm thanh vi diệu thanh tịnh, chỗ khác gọi là Diệu âm, một trong các loại âm thanh mầu nhiệm của Đức Quán Thế Âm Bồ tát. Qua nhân vật tiêu biểu nầy, ám chỉ cho chúng sinh khi thọ trì, giữ giới thanh tịnh thì thành tựu ý nghĩa Tịch điều phục âm của chính mình, tự tâm minh, không đâu xa, không do ai tạo ra và ban cho. Thế nên, Kinh Hoa Nghiêm nói: “Biết tất cả pháp đều từ tự tâm, tự tánh phát sinh, thành tựu Pháp thân trí huệ do chính mình, không do ai khác” (tri nhứt thiết pháp, tức tự Tâm tánh. Thành tựu Huệ, thân bất do tha ngộ).

2. Nhân vật tiêu biểu thứ hai là Bồ tát Văn Thù. Văn Thù là Căn bản trí, là phần tri, phần giải trong Kinh Hoa Nghiêm là Tín, Giải, Hành, Chứng. Do đó, mọi Trí dụng đều xuất phát từ Căn bản trí, từ Bản giác, từ Lý tánh của mỗi chúng sanh, nhất là Bồ tát. Vì thế, Văn Thù còn gọi là Trí mẫu, là mẹ sinh ra Trí tuệ phương tiện và Trí tuệ cứu cánh, thành Phật. Như muốn giữ giới thanh tịnh phải có Trí tuệ phương tiện, do trí tuệ phương tiện là cho Giới thanh tịnh, cả hai đều xuất phát từ tâm, cho nên Kinh tạng Pali cũng khẳng định: “Hễ ai có trí tuệ, thì người ấy có giới luật. Người có giới luật là người có đầy đủ trí tuệ” (D.22). Như vậy là Lý – Trí hiệp nhất, Hạnh giải tương ưng, ngay nơi đây có an lạc, giải thoát, Niết bàn.

3. Thanh tịnh Tỳ ni, là Giới luật của Bồ tát. Tại sao giới luật của Bồ tát gọi là thanh tịnh? Vì Bồ tát lấy Tâm từ bi làm thể và phát khởi tác dụng, thực hành Bồ tát đạo, hoằng pháp độ sanh, cứu độ các loài hữu tình, trang nghiêm cho thế gian và cho chúng sanh, làm như vậy là thành tựu hạnh nguyện Bồ tát và đấy cũng là thanh tịnh giới luật của Bồ tát. Cho nên, Kinh Anh Lạc chia giới luật Bồ tát là 3 loại: Giới nhiếp luật nghi – Giữ gìn ba nghiệp thân, miệng, ý thanh tịnh tức là đoạn đức, tương ưng Niết bàn; Giải thoát Pháp thân – Giới tu tập thiện pháp như Chỉ quán, Tứ đế, 5 loại trí tuệ, 6 pháp, 10 pháp Ba la mật v.v…, thành tựu Trí đức dẫn đến Bồ đề, chứng Bát nhã, Chân như; Pháp thân thanh tịnh – Giới làm lợi ích chúng sanh qua 4 Tâm vô lượng, 4 Pháp nhiếp hóa v.v…, thành tựu ân đức, đại từ bi tâm, thành tựu giải thoát đức, tự tại độ sanh không chướng ngại. Qua đó, thực hành đầy đủ ba loại giới như thế là thanh tịnh, ngược lại là bất tịnh, vì trái với tâm hạnh Bồ tát. Do đó, người không có Từ bi, Trí tuệ thì không phải là Bồ tát. Mà đã là Bồ tát thì phải có đầy đủ đức tính Từ bi, Trí tuệ. Đây cũng là tiêu chuẩn xác định phẩm hàm Bồ tát và cũng từ đó mà tiến tu giải thoát, thành Phật.

Qua đó, cho thấy 17 loại giới thanh tịnh của Bồ tát trong Kinh nầy là thuộc về 3 loại giới thanh tịnh của Bồ tát, và nhất là do 3 tâm thanh tịnh mà gọi là thanh tịnh, là Tâm không thấy mình là người giữ giới, tâm không thấy giới đã thọ trì, tâm không phân biệt người và mình thanh tịnh hay không thanh tịnh, vì các Pháp là Không, là Vô tướng.

4. Vấn đề thứ tư là ảnh hưởng tư tưởng Không của Bát nhã. Qua đó, cho thấy Kinh nầy xuất hiện sau thời Bát nhã, vì thế tư tưởng Không là chủ đạo của Kinh, mà Không thì lấy Trí tuệ Bát nhã làm tác dụng để hiểu nghĩa Không: Không trên cơ sở tu tập, quán chiếu, thi hành Phật sự, chứng quả Niết bàn. Thế nên Kinh Tứ Thập Nhị Chương nói: “Pháp của Ta niệm nhưng không có người niệm, thực hành nhưng không có người thực hành, tu nhưng không có người tu, chứng nhưng không có người chứng và pháp để chứng”. Vì thế, thực hành giới pháp, tu trì giới pháp nhưng không thấy có mình tu, mình trì, mình chứng, như vậy xa lìa được 4 tướng Ngã (mình), nhân (người thứ hai), chúng sanh và thọ mạng. Thế nên, Xuyên Công Thiền sư nói: “Ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Hư danh lập trên 5 uẩn. Như lông rùa sừng thỏ, chúng giả có không hình”. Như vậy, cuối cùng là đạt được lý không, nhưng không phải là ngoan không, mà chính là Chân không, diệu hữu. Như Cổ đức nói: “Khi không còn chấp Tâm và Cảnh, mới ngộ lý Sắc Không. Muốn biết bản lai thể hãy nhìn mây trắng với non xanh”. Để từ đó, nhận được diệu lý: “Trúc biếc hoa vàng đâu phải là cảnh khác. Non xanh, mây bạc toàn là Chân như” (Thiền Lão TS) và Kinh Trường A Hàm cũng xác định: “Đối với người Tâm đã giải thoát thanh tịnh, thì không những biết mình thanh tịnh giải thoát mà còn thấy cảnh giới, người khác cũng thanh tịnh giải thoát” (D.15).

5. Sự so sánh giữa Thinh văn và Bồ tát trong Kinh nầy chính là tư tưởng đề cao tinh thần Bồ tát, nhập thế độ sanh, thực hành Bồ tát đạo, khác với lý tưởng tự giải thoát của Thinh văn, làm cơ sở để định lượng cho sự tu tập khác nhau, chứng quả khác nhau, hành động khác nhau, là tiêu cực, tích cực, dấn thân, yếm thế, chấp trước, vô ngã vị tha, tự tại vô ngại, vô tướng của Bồ tát. Như Cổ đức nói: “Non xanh chẳng ngại vì mưa tuyết. Bẳng lặng sợ gì gió thoảng qua”. Như Tôn giả A Nan đã phát nguyện: “Cõi đời ngũ trược, con xin vào trước. Còn một chúng sinh vướng khổ sầu. Còn một chúng sinh chưa giải thoát, Niết bàn, an lạc ích chi đâu” (kinh Lăng Nghiêm).  Tuy nhiên, để chỉ rõ vấn đề, trong Kinh Ưu Ba Ly vấn Đức Phật trả lời câu hỏi như sau: “Bạch Thế Tôn, như vậy, giữa hàng Thinh văn và Bồ tát, con phải cung kính đảnh lễ ai? Đức Phật đáp: Nếu muốn cho ngôi Xuất thế gian Tam bảo tồn tại lâu dài ở thế gian thì cung kính, đảnh lễ hàng Thinh văn. Còn kính quý hàng lợi mình, lợi người, hết lòng cứu độ chúng sanh, đồng giác ngộ như mình thì cung kính, đảnh lễ Bồ tát”.

6. Vấn đề chủ yếu khác là Pháp. Pháp theo Kinh tạng Pali gồm có Pháp học và Pháp hành. Pháp học là toàn bộ giáo pháp Tạng Kinh, Tạng Luận. Pháp hành là toàn bộ giới luật Phật chế định là Luật tạng. Do đó, Kinh nầy trình bày khá chi tiết rõ ràng về pháp học, pháp hành. Nói theo Kinh Tăng Nhất, là Pháp Thinh văn, Duyên giác, Bồ tát và 37 phẩm Trợ đạo cùng các pháp khác. Vì thế, một câu, một chữ cũng có khả năng phát sinh các Phật pháp, nên gọi là Pháp bổn, Pháp chủ Và Pháp ấy được tóm tắt trong ý nghĩa bài kệ của Phật Ca Diếp: “Không làm các điều ác. Thực hành các điều thiện. Giữ tâm cho thanh tịnh. Đó là lời Chư Phật dạy” (PC.183). Qua đó, bài kệ trên vừa mang ý nghĩa Pháp học và Pháp hành cản bản của hàng đệ tử Phật xuất gia cũng như tại gia. Thế nên ngày xưa nhân sĩ Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư về ý nghĩa Phật pháp, Ngài trả lời bằng bài kệ trên. Bạch Cư Dị nói: Bài kệ này đứa trẻ 3 tuổi cũng biết. Thiền sư đáp: Đứa bé 3 tuổi đều biết, nhưng người 80 tuổi thực hành cũng chưa xong. Đấy là cốt tủy của Phật pháp.

7. Vấn đề cuối, có thể thấy rất rõ là Giới Bồ tát, là Đại giới, Tâm địa giới. Do đó, những giới tướng thì không thể bao hàm được Tâm giới, mà chỉ có Tâm giới mới bao hàm được giới tướng. Cũng như bể cả, hư không thì mới bao hàm, chứa đựng tất cả các pháp được. Nói khác đi, Giới Bồ tát thì bao hàm các giới khác, ngược lại thì không. Như người xưa thường nói: “Đại nhơn bất nhập tiểu môn gia” (Người lớn không vào nhà được bằng cửa nhỏ). Vì vậy, khi nghiên cứu, tu tập, hành trì theo giới Bồ tát thì phải trải lòng rộng lớn, bao dung, độ lượng, vô ngã, vị tha, vô tướng mới mong đạt được kết quả cứu cánh, thành Phật. Như Kinh Phạm Võng nói: “Giới sáng như nhật nguyệt. Như chuổi báu anh lạc. Chúng Bồ tát nhiều như hạt bụi. Đều do giới Bồ tát mà thành Phật” (Giới minh như nhật nguyệt. Diệc như Anh Lạc châu. Vi trần Bồ tát chúng. Do thị thành Chánh giác).

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 15/11/2011

Tỳ kheo Thích Thiện Nhơn kính ghi

Tiểu sử dịch giả

Kinh Thanh Tịnh Tỳ Ni Phương Quảng do Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập (Kumarajiva) 343-413TL dịch từ Phạn văn sang Hán văn.

Ngài là người nước Khâu Tư (Kucha), lên 7 tuổi xuất gia. Ngài theo mẹ qua nước Kế Tân (Kashmir), chu du các nước ở Tây vực tham học Phật pháp. Giai đoạn đầu Ngài theo học giáo lý Tiểu thừa, sau theo Đại thừa. Năm 11 tuổi, Ngài đủ khả năng đối luận với ngoại đạo, không chịu thua kém ai, nên người đời gọi Ngài là Thần đồng. Năm 20 tuổi, Ngài trở về Khâu Tư thọ Đại giới. Thanh danh Ngài truyền tới Trung Quốc, Vua Phú Kiên nhà Tiền Tần nghe biết liền sai tướng Lã Quang đem quân tiến đánh Khâu Tư, giữa niên hiệu Kiền Nguyên thứ 19 (383) và bảo Lã Quang: Trẩm có nghe Cưu Ma Thập, hiểu sâu nghĩa Pháp tướng, lại rõ luật âm dương, trẩm muốn học hỏi tôn chỉ đó, vậy ngươi phải tiến đánh Khâu Tư để rước Cưu Ma Thập về. Lã Quang dấy binh tiến đánh Khâu Tư và đón Cưu Ma Thập, nhưng khi về được nửa đường được tin nhà Tiền Tấn đã mất, Hậu Tần lên thay thế, Lã Quang liền đưa Ngài về Cô Tàng (tỉnh Cam Túc) tự lập một nước riêng, gọi là Hậu Lương, đống đô ở Cô Tàng (386).

Ngài Cưu Ma Thập ở Cô Tàng được 15 năm, sau Diêu Hưng – Vua nhà Hậu Tần sai tướng là Diêu Thạc Đức đem quân đánh Hậu Lương, rước được Cưu ma Thập về Tràng An, tỉnh Thiểm Tây giữa niên Hoằng Thỉ năm thứ 3 (401) đời Hậu Tần. Sau khi tới Tràng An, thì Ngài Đạo An đã mất trước đó 16 năm, và đương thời Ngài Tuệ Viễn đang lập cước ở Lô Sơn phương Nam tỉnh Triết Giang. Sau khi Diêu Hưng đã đón được Cưu Ma La Thập, ông rất trọng đãi và tôn làm Quốc sư, ban cho Lầu các Tây Minh và vườn Tiêu Dao để làm hội trường phiên dịch kinh điển. Ngài ở Tràng An 12 năm chuyên việc phiên dịch, đến niên hiệu Hoằng Thủy thứ 13 (413) thì Ngài viên tịch, thọ 70 tuổi.

Về sự nghiệp phiên dịch, Ngài và Tâm tạng Pháp sư Huyền Trang là hai dịch giả sáng danh trên diễn đàn dịch thuật của Phật giáo Trung Quốc. Theo xuất bản Tam Tạng ký, Ngài dịch tất cả 32 bộ, gồm 300 quyển (có nơi nói, Ngài dịch được 97 bộ, gồm 425 quyển, hay 74 bộ gồm 384 quyển). Tiêu biểu như:

- Kinh Ma ha Bát nhã Ba la mật: 27 quyển

- Kính Tiểu phẩm Bát nhã Ba la mật: 10 quyển

- Kim Cang Bát nhã Ba la mật: 01 quyển

- Kinh Nhân vương Hộ quốc Bát nhã Ba la mật : 2 quyển

- Kinh Ma ha Bát nhã Đại thần chú: 01 quyển

- Kinh Diệu Pháp Liên Hoa: 07 quyển

- Kinh A Di Đà: 01 quyển

- Kinh Duy Ma Cật: 03 quyển

- Kinh Tọa Thiền Tam muội: 03 quyển

- Kinh Di Lặc thành Phật: 01 quyển

- Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam muội: 03 quyển

- Kinh Phạm Võng: 02 quyển

- Kinh Đại Trang Nghiêm Luận: 15 quyển

- Luận Đại Trí Độ: 100 quyển

- Trung luận: 04 quyển

- Luận Thập Nhị môn: 01 quyển

- Bách Luận: 02 quyển

- Luận Thành Thật: 20 quyển

- Luận Thập Trụ Tỳ bà sa: 14 quyển.

v.v…

 

 

 

KINH THANH TỊNH TỲ NI PHƯƠNG QUẢNG

 

Hán dịch – Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập

I. Mở đầu Pháp thoại:

Sự thành tựu một bài kinh

Chánh văn:

Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật thuộc thành Vương xá, cùng với 8.000 vị Tỳ kheo Tăng và 12.000 vị Bồ tát, cùng với các vị Thiên tử cõi dục, cõi sắc và cõi Tịnh Cư thiên đều tập hợp đông đủ.

Lược giảng:

Trên đây là đoạn văn mở đầu Pháp thoại Thanh Tịnh Tỳ Ni, từ chuyên môn gọi là 6 yếu tố để tạo thành sự hợp pháp một thời kinh, một bài pháp. Theo Kinh Đại Niết Bàn (Trường bộ), Kinh Du Hành (A Hàm), Kinh Đại Bát Niết Bàn (Hán tạng), Luận Đại Trí Độ ghi: “Trước khi Đức Thế Tôn nhập diệt, tôn giả A Nan bạch Phật: Đầu các Kinh khi kiết tập, nên để chữ gì? – Đức Phật đáp: “Nên để Tôi nghe như vầy…”.

Trong đó, Tôi nghe là thành tựu về niềm tin chính xác, là Tôn giả A Nan đã nghe kinh nầy do Đức Phật nói. Một thời là thành tựu về thời gian. Đức Phật là thành tựu về chủ thể thuyết pháp, Đức Phật là chủ giảng. An trú tại núi Kỳ Xà Quật, thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Đà là thành tựu về xứ sở, địa điểm nói kinh nầy. Với 8.000 vị Tỳ kheo, 12.000 vị Bồ tát v.v… là thành tựu về số chúng tham dự Pháp hội. Đặc biệt, có Chư Thiên Ngũ Tịnh Cư là 5 cõi trời thuộc Tứ thiền, Sắc giới là Vô phiền thiên, Vô nhiệt thiên, Thiện kiến thiên, Thiện hiện thiên, Sắc cứu cánh thiên (Hữu đãnh thiên). Vua trị vì cõi này là Đại Tự Thiên vương. Đức Phật và các Bồ tát thường thị hiện nói pháp ở cảnh giới Chư Thiên nầy.

II. Nội dung chính của Pháp thoại:

Chánh văn:

Bấy giờ, Đức Thế Tôn cùng với đại chúng vô lượng trăm ngàn người, đang cung kính vây quanh mà nói pháp.

Khi ấy, có một vị thiên tử tên là Tịch Điều Phục Âm đã đến dự và đang ngồi trong pháp hội nầy.

Lược giảng:

Thiên tử Tịch Điều Phục Âm là đương cơ thuyết pháp, có nghĩa là người thưa hỏi chính trong Pháp hội để Đức Phật bắt đầu Pháp thoại Thanh Tịnh Tỳ Ni. Nói cách khác, Ngài là nhân vật chính.

Chánh văn:

Lúc đó, Thiên tử Tịch Điều Phục Âm từ chỗ ngồi đứng dậy, vén áo cánh tay hữu, gối hữu chấm đất (quỳ gối), chắp tay hướng về Đức Thế Tôn và bạch: “Thưa Đức Thế Tôn, Ngài Văn Thù Sư Lợi đang ở đâu? Nay đại chúng muốn ra mắt Ngài? Và đồng thời muốn nghe pháp từ vị Thiện trượng phu này nói?”.

Lược giảng:

Thiên tử hỏi Phật:

Thiên tử là tiêu biểu cho Trí dụng, là tất cả hành động, suy nghĩ, đều từ Căn bản Trí phát sinh, do đó Thiên tử muốn chỉ cho đại chúng thấy biết về Căn bản Trí của chính mình. Sự kiện nầy theo kinh điển lấy Bồ tát Văn Thù làm cơ sở để lý giải. Vì Bồ tát Văn Thù là tiêu biểu cho Căn bản Trí.

Chánh văn:

Đức Phật bảo Tịch Điều Phục Âm như sau: Này Thiên tử! Cách phương đông 10 ngàn cõi Phật, ở đấy có một cõi Phật tên là Bửu Chủ, và trong cõi ấy có một Đức Phật tên là Bảo Tướng Như Lai ứng chánh biến tri, hiện tại đang nói pháp và ngài Văn Thù Sư Lợi đang ở cõi Bảo Chủ trên, đồng thời vì chư Đại Bồ tát mà lần lượt nói pháp.

Lược giảng:

Đức Phật trả lời câu hỏi của Thiên tử, để chỉ cho tất cả cảnh giới Phật, chư Phật 10 phương không ngoài nhất tâm niệm, do đó Pháp giới Tâm là căn bản, cho nên dù xa nhưng không xa, vì không ngoài Tâm pháp giới. Như Kinh Hoa Nghiêm nói: “Trên đầu một sợi lông hiện ra vô số thế giới chư Phật. Không một Pháp nào không từ Pháp giới phát sinh, cuối cùng không một pháp nào không trở về Pháp giới”.

Chánh văn:

Bấy giờ, Thiên tử Tịch Điều Phục Âm bạch Đức Thế Tôn: Cúi mong hãy hiện tướng để khiến cho ngài Văn Thù Sư Lợi đến cõi này. Tại sao? Thưa Đức Thế Tôn, có nghe pháp của tất cả Thanh văn, Duyên giác, nhưng không bằng nghe pháp của ngài Văn Thù Sư Lợi, chỉ trừ Đức Như Lai, ngoài ra tất cả vị khác nói pháp thì không thể hơn được ngài Văn Thù Sư Lợi. Và khi Ngài nói pháp thì tất cả cung ma đều tối tăm, bị che tối, và có thể đánh đổ được tất cả chúng ma, loại trừ được tăng thượng mạn, và an trụ vào sự diệt tăng thượng mạn. Đồng thời, nếu ai chưa phát tâm Bồ đề thì phát tâm Bồ đề; còn người nào đã phát tâm rồi thì an trụ không thể thối chuyển; với những ai đáng được thu nhiếp thì thu nhiếp; với những ai đáng xả bỏ thì xả bỏ, và thuận theo Đức Như Lai, muốn cho chánh pháp an trụ lâu dài.

Lược giảng:

Thiên tử Tịch Điều Phục Âm tán thán uy đức Văn Thù Sư Lợi, nhất là tác dụng hiệu năng giáo pháp Ngài Văn Thù Sư Lợi trình bày gồm có 07 tác dụng mà chỉ có một Đức Như Lai là bì kịp. Còn các vị khác thì không thể sánh bằng.

Chánh văn:

Lúc đó, Đức Thế Tôn biết được tâm niệm Thiên tử Tịch Điều Phục Âm, rồi thời Ngài liền phóng bạch hào quang tạng, chiếu khắp cõi Phật Ta bà này xong, rồi liên tiếp chiếu khắp cõi Phật của Đức Bửu Tướng ở cách phương đông mười ngàn cõi Phật.

Lược giảng:

Đức Phật đáp ứng yêu cầu của Thiên tử, phóng hào quang chiếu khắp Ta bà, sau đó chiếu sáng cõi Bửu Chủ của Đức Phật Bảo Tướng. Vì Tuệ giác Trung đạo của các Đức Phật là đồng nhau, do đó dung thông vô ngại và hiểu thấu lẫn nhau.

Chánh văn:

Khi ấy, chư đại Bồ tát ở thế giới Bảo Chủ thấy hào quang này rồi, liền bạch Đức Phật Bảo Tướng như sau: Thưa Thế Tôn! Đây là tướng hào quang gì mà có ánh sáng chiếu khắp thế giới này?

Lược giảng:

Những ý nghĩ của Chúng hội ở thế giới Bửu Chủ: Đối với Chư Phật, Văn Thù Sư Lợi là Căn bản Trí thì biết rõ vấn đề, nhưng vì Đại chúng thì chưa trực nhận cho nên chưa biết rõ nên mới hỏi Phật.

Chánh văn:

Đức Phật trả lời:

Đức Phật Bảo Tướng bảo các vị Bồ tát rằng: Này Thiện nam tử! Cách Tây phương mười ngàn cõi Phật có quốc độ tên là Ta bà và trong thế giới ấy có một Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng cúng Chánh biến tri hiện đang nói pháp, và Đức Phật ấy đã phóng ra một lằn hào quang tạng, và hào quang này thấu suốt mười ngàn cõi Phật và chiếu đến cõi này.

Lược giảng:

Theo yêu cầu của Đại chúng, Đức Phật Bảo Tướng đã trả lời chi tiết những ý nghĩa sâu xa mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn biểu thị, đó là Chúng hội ở thế giới Ta bà muốn ra mắt Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát.

Chánh văn:

Khi ấy, các vị Bồ tát bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Do nhơn duyên gì Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng cúng Chánh biến tri phóng ra một lằn hào quang tạng?

Lược giảng:

Đại chúng hỏi Phật Bảo Tướng về lý do mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phóng ra lằn hào quang tạng.

Chánh văn:

Đức Phật đáp: Ở thế giới Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai có vô lượng ức Bồ tát đều tập hợp, và Đế Thích, Phạm Vương, Hộ Thế Thiên Vương, tất cả bốn chúng đều muốn ra mắt Văn Thù Sư Lợi đồng tử, và nghe pháp do ngài Văn Thù Sư Lợi nói. Vì nhơn duyên ấy, cho nên thỉnh Đức Thích Ca Mâu Ni phóng ra một lằn hào quang tạng.

Lược giảng:

Đức Phật Bảo Tướng trả lời câu hỏi của Đại chúng là lý do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phóng ra lằn hào quang tạng đến thế giới nầy.

Chánh văn:

Bấy giờ, Đức Bửu Tướng Như Lai bảo ngài Văn Thù Sư Lợi như sau: Nay ông có thể qua thế giới Ta bà vì Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng cúng Chánh biến tri muốn gặp ông, và Đại chúng cũng muốn ra mắt và nghe pháp của ông.

Lược giảng:

Đức Phật Bảo Tướng Như Lai bảo Bồ tát Văn Thù Sư Lợi quan thế giới Ta bà để yết kiến Đức Phật Thích Ca và cho đại chúng ra mắt Ngài. Đây là một cử chỉ tôn trọng, vì Bồ tát Văn Thù Sư Lợi đã biết trước những gì sẽ đưa đến khi hào quang tạng xuất hiện. Tuy nhiên, phải chờ ý kiến của Phật Bảo Tướng, có nghĩa là Phật Bảo Tướng sai đi làm Phật sự, và Bồ tát Văn Thù Sư Lợi lãnh sứ mệnh của Phật, xem như là Tăng sai, chớ không bao giờ tự ý, dù Căn bản trí đầy đủ thể, tướng và dụng.

Chánh văn:

Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch Đức Bửu Tướng Thế Tôn: Thực ra, thì nay tôi cũng đã biết điềm hào quang trên như thế.

Lược giảng:

Đây là lời xác định của Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, vì mọi vấn đề đều từ Căn bản trí phát sinh.

Chánh văn:

Khi ấy, ngài Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử cùng đông đủ mười ngàn vị Bồ tát đầu mặt đảnh lễ chân Đức Bửu Tướng Như Lai, và trong khoảng thời gian như người tráng sĩ duỗi cánh tay, rồi cùng mười ngàn vị Bồ tát ở thế giới Bửu Chủ đều ẩn mặt, để đến thế giới Ta bà và trụ trên hư không, nhưng không hiện hình. Và đồng thời mưa các thứ hoa để cúng dường Đức Như Lai và Đại chúng. Với xác hoa cao lên đến gối, màu tạp sắc (hỗn hợp) và đẹp đẽ, mùi hương thật vừa ý.

Lược giảng:

Trong Pháp giới vô tận, mọi sự thông thương với nhau là không có gì trở ngại, nhất là thành tựu thần thông du hý tam muội, do đó được tự ẩn, hiện, qua lại trong ba cõi và 10 phương thế giới để thi hành Phật sự, Bồ tát đạo v.v… Cũng như Kinh Di Đà nói: Mỗi buổi sáng, các chúng sinh ở cõi cực lạc, lượm đầy đãy hoa, đi cúng dường các Đức Phật 10 phương, rồi trở về thọ trai trưa vẫn đúng giờ không trễ nãi, đây là thần thông du hý tự tại của chúng sinh ở thế giới Tây phương cực lạc, mà Tây phương cực lạc cũng là hiện hữu trong pháp giới vô tận.

Chánh văn:

Lúc đó, tất cả đại chúng khi thấy mưa hoa này rồi, liền bạch Đức Thế Tôn rằng: Đây là tướng gì mà mưa hoa như thế này?

Lược giảng:

Như trên đã nói, Phật và Bồ tát Văn Thù vì tương ưng giữa Căn bản trí và Hậu đắc trí, từ Bản giác và Thỉ giác hiệp nhất, nên biết rõ tất cả các pháp hiện hữu và biến động xảy ra. Trái lại, đại chúng vì chưa thực chứng, cũng như an trú Căn bản trí, nên không hiểu rõ, Trí dụng, do đó mới hỏi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Chánh văn:

Đức Phật bảo: Này Thiện nam tử! ngài Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử cùng đông đủ mười ngàn vị Bồ tát đến thế giới Ta bà này, đang trụ trên hư không, nhưng không hiện hình và mưa hoa để cúng dường Ta.

Lược giảng:

Đức Phật trên cơ sở Hậu đặc trí, trả lời câu hỏi của Đại chúng về hiện tượng vừa mới xảy ra trên cơ sở Pháp giới vô tận, Căn bản trí diệu dụng bất tư nghì.

Chánh văn:

Đại chúng yêu cầu:

Khi đó, tất cả Đại chúng đều đồng thanh bạch Phật: Nay chúng tôi muốn ra mắt và tận mắt thấy ngài Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử, cũng như hình dung các vị Bồ tát ấy.

Lược giảng:

Để thể hiện tâm cung kính khát ngưỡng, nên Đại chúng một lần nữa bạch Phật là muốn ra mắt và mục kích tận mắt Bồ tát Văn Thù cũng như các Bồ tát khác đang ẩn mình không hiện.

Chánh văn:

Lúc đó, ngài Văn Thù Sư Lợi và mười ngàn vị Bồ tát từ trên hư không bước xuống, đảnh lễ chơn Đức Phật, đi quanh bên hữu và đồng thời dùng thần lực hóa làm một cái tòa xong, rồi ngồi qua một bên.

Lược giảng:

Sau khi Đại chúng đã hết lòng thành kính muốn ra mắt Bồ tát Văn thù, và các Bồ tát khác, nên các Ngài ứng hiện theo yêu cầu, như Cổ đức nói: “Hữu cầu tất ứng, hữu nguyện tất thành”

Chánh văn:

Khi ấy, Thiên tử Tịch Điều Phục Âm bạch Đức Thế Tôn như sau: Tôi muốn nghe pháp do ngài Văn Thù Sư Lợi nói, và sự kiến lập ngôn luận của Ngài rất được nhiều người muốn nghe.

Lúc đó, Đức Phật bảo Thiên tử! Nay tùy theo sự nghi của ông như thế nào thì cứ tự ý hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi đây.

Thiên tử bạch Phật: Muốn nghe pháp từ Bồ tát Văn Thù như lời ước nguyện, trình bày trước đây và Đức Phật đã tùy hỷ để cho Thiên tử tự do thưa hỏi với Bồ tát Văn Thù.

Bấy giờ, Thiên tử Tịch Điều Phục Âm hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi như sau: Ở cõi Phật Bửu Tướng nói pháp như thế nào, mà ông thích ở cõi ấy?

Lược giảng:

Câu hỏi đầu tiên của Thiên tử là về nói pháp. Tại sao? Vì Phật là Pháp chủ, là người phát sinh ra Phật pháp, do đó Thiên tử dựa trên cơ sở Hữu pháp để hỏi Bồ tát Văn Thù Sư Lợi.

Chánh văn:

Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Này Thiên tử! Không sinh tham dục, không diệt tham dục; không sinh sân khuể, không diệt sân khuể; không sinh ngu si, không diệt ngu si; không sinh phiền não, không diệt phiền não. Tại sao? Vì pháp vô sinh, nên cuối cùng không có diệt.

Lược giảng:

Bồ tát Văn Thù trên lập trường các pháp là không tướng, nên trả lời là không. Vì không nên tất cả tướng đều không, không sinh, không diệt, thường trú vắng lặng tuyệt đối.

Chánh văn:

Thiên tử hỏi: Thế thì phải chăng là chúng sinh ở thế giới Bửu Chủ không sinh và không diệt tham dục, sân khuể, ngu si và phiền não ư?

Lược giảng:

Vì không đạt được lý tưởng tuyệt đối của các pháp, nên Thiên tử đặt nghi vấn với Bồ tát Văn Thù về ý nghĩa trên.

Chánh văn:

Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Này Thiên tử, không phải như vậy.

Lược giảng:

Bồ tát Văn Thù trên cơ sở lập trường Chân không Diệu hữu của Bát nhã mà xác lập vấn đề, nên phủ nhận.

Chánh văn:

Thiên tử hỏi: Đức Phật Bửu tướng nói pháp để đoạn trừ cái gì (cái gì được đoạn trừ)?

- Nếu tất cả là không, thì Phật Bửu Tướng nói pháp để làm gì? Vì pháp có hiệu năng là đoạn trừ phiền não, chứng quả Bồ đề.

Đáp: Vì không sinh không diệt mà nói pháp. Tại sao? Vì cõi Phật Bửu Tướng không biết đoạn và không có tu chứng. Vì chúng sinh cõi ấy trọng Đệ nhất Nghĩa đế, chứ không trọng nghĩa Thế tục đế.

Lược giảng:

Bồ tát Văn Thù lập lại ý nghĩa không mà trả lời Thiên tử, nhưng ở bình diện khác là quan điểm Đệ nhất Nghĩa đế.

Chánh văn:

Thiên tử hỏi: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi, thế nào là Đệ nhất Nghĩa đế?

- Đáp: Thiên tử! chúng sinh cõi ấy không trụ sinh, không trụ diệt, không có tư tưởng hữu xứ; không có tư tưởng vô xứ, không phải tướng một, không phải tướng không (= có), không phải tướng có (= không), không có thể hình dung (= không), không phải không thể hình dung (= có), không phải phi tâm khả tận, vô tận, vô hữu năng tận. Như thế gọi là Đệ nhất Nghĩa đế.

Lược giảng:

Bồ tát Văn Thù xác lập ý nghĩa Đệ nhất Nghĩa không là ly khai tất cả tướng, hiện tượng tâm lý, cũng như không gian, thời gian … tất cả đều là không. Như Hương Hải Thiền sư nói: “Muôn Pháp về không, không chỗ nương. Chơn như vắng lặng hiện Chân thường. Thấu suốt nguồn Tâm, không chỗ chỉ. Nước Tâm bóng nguyệt, tuyệt suy lường”.

Chánh văn:

- Này Thiên tử! Về nghĩa, tức là phi tâm, phi tâm tương tục; phi ngôn thuyết cú; không có đây, không có kia, cũng không có trung gian, như thế gọi là Đệ nhất Nghĩa đế.

- Này Thiên tử! Lại nữa, nghĩa tức là không có thể được, không thể diễn tả bằng ngôn ngữ văn tự. Như vậy, gọi là Đệ nhất Nghĩa đế. Tại sao? Vì Đức Phật nói tất cả âm thanh đều là hư vọng.

Lược giảng:

Bồ tát Văn Thù xác lập ý nghĩa Đệ nhất Nghĩa đế là không. Luận Đại thừa Khởi Tín nói: “Chơn như là ly khai tất cả tướng, tất cả tâm phân biệt, không có hình tướng, cao thấp, bình đẳng, một vị, là nhất như”.

Mặt khác, Luận Đại thừa Khởi Tín cũng xác lập: “Không phải là văn tự, ngôn ngữ, câu cú, ngôn thuyết, tất cả đều xa lìa, nên gọi là Chơn như”.

Chánh văn:

Thiên tử hỏi: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi, Đức Như Lai nói pháp có thể là hư vọng ư?

Lược giảng:

Khi nghe Bồ tát Văn Thù trình bày lý Đệ nhất Nghĩa đế, vì không hiểu thấu ý nghĩa tuyệt đối, bất nhị, vô ngôn, nên sinh ý nghĩ như thế và đã hỏi Bồ tát Văn Thù như trên.

Chánh văn:

Đáp: Này Thiên tử! Đức Như Lai nói pháp không chơn thật và cũng không hư vọng. Tại sao? Vì Như Lai không có hai tướng; không có tâm trụ, không có ngôn ngữ để nói; không phải là pháp hữu vi, cũng không phải là pháp vô vi; không phải nói chơn thật, cũng không phải nói phi chơn thật, không phải nói hư vọng, cũng không phải nói phi hư vọng, vì không có hai tướng.

- Này Thiên tử! Ý ông nghĩ sao, Đức Như Lai hóa ra một người. Rồi nếu người đó có nói năng thì là thật hay là hư vọng?

- Đáp: Không phải thật, cũng không phải hư vọng. Tại sao? Vì Đức Như Lai hóa ra một người không có thật.

Lược giảng:

Thiên tử thừa nhận ý chỉ của Bồ tát Văn Thù về ý nghĩa người nói pháp và pháp được nói, cũng như là người biến hóa không thật.

Chánh văn:

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: Đúng vậy, này Thiên tử. Tất cả các pháp không có thành tựu nên Như Lai nói pháp không thật cũng không hư vọng. Cho nên gọi là vô nhị.

Lược giảng:

Như Kinh Giải Thâm Mật nói: “Với lý Thắng Nghĩa đế, không phải một hay khác. Ai cho là một hay khác, là hiểu biết không đúng”. Đây cũng là lý Vô nhị và ly ngôn vậy.

Chánh văn:

Thiên tử hỏi: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi Thế nào là Đệ nhất Nghĩa đế (thế nào là Như Lai Đệ nhất nghĩa)?

Lược giảng:

Vì chưa đạt được nghĩa lý Đệ nhất Nghĩa không, nên Thiên tử tiếp tục đặt nghi vấn đối với Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, và Bồ tát giải thích tiếp.

Chánh văn:

Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Này Thiên tử! Không có người hay nói Đệ nhất nghĩa. Tại sao? Vì không có ngôn thuyết (nói năng) và cũng không có người hay nói. Và khi nói pháp này xong có 500 vị Tỳ kheo, không thọ các pháp, tâm hết các lậu được giải thoát và 200 vị Thiên tử chứng được Pháp nhẫn (Vô sanh Pháp nhẫn).

Lược giảng:

Tóm lại, như Kinh Lăng Già nói: “Từ Bồ đề đạo tràng, cho đến thành Thi Na, khoảng giữa hai nơi ấy, ta chưa từng nói một lời”. Sau khi nghe Bồ tát Văn Thù trình bày về ý nghĩa Đệ nhất Nghĩa đế, đại chúng được lợi ích vô cùng như Kinh văn đã đề cập.

Chánh văn:

Bấy giờ, Thiên tử Tịch Điều Phục Âm nói với ngài Văn Thù Sư Lợi như sau: Về Đệ nhất Nghĩa đế thì thật là khó hiểu.

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: Này Thiên tử! Đúng vậy. Về Đệ nhất Nghĩa đế thì thật là khó hiểu. Nếu như người không chơn chánh tu hành thì không thể hiểu được.

- Thiên tử hỏi: Thế nào là Bồ tát không chơn chánh tu hành?

- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Nếu như không có nói năng mà biết đoạn, biết tu và biết chứng, như vậy gọi là chơn chánh tu hành. Tại sao? Vì nếu có tướng thì là tham dục, là hý luận. Hơn nữa, nếu như có nói là nên biết, nên đoạn, nên tu, nên chứng thì không gọi là chơn chánh tu hành.

Lược giảng:

Bồ tát Văn Thù trả lời câu hỏi của Thiên tử. Thế nào là Bồ tát không chân chánh tu hành? Đó là, nên biết, nên đoạn, nên tu, nên chứng là không chân chánh tu hành. Tại sao? Như Kinh Tứ Thập Nhị Chương nói: “Pháp của Ta niệm nhưng vô niệm, hành nhưng vô hành, tu nhưng không có tu, chứng nhưng không có chứng, mới là chân thật tu”. Nói khác đi, như Tổ Hiện Quang nói: “Pháp tu cũng là huyễn, người tu cũng là huyễn, biết cả hai đều là huyễn, mới thực là ly huyễn”. Có nghĩa là đạt được lý không, giác ngộ, giải thoát. Nên Kinh Viên Giác xác định: “Ly huyễn tức là giác ngộ”.

Chánh văn:

Thiên tử hỏi: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi, thế nào là Bồ tát chơn chánh tu hành?

- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Là nếu như chơn như bình đẳng, pháp giới bình đẳng thì ngũ nghịch cũng bình đẳng. Và nếu như chơn như và pháp giới bình đẳng thì kiến chấp cũng bình đẳng. Nếu như pháp phàm phu bình đẳng thì pháp học và vô học cũng bình đẳng. Nếu như pháp Thanh văn bình đẳng thì pháp Duyên giác cũng bình đẳng; pháp bình đẳng và pháp Phật cũng bình đẳng. Nếu như sinh tử bình đẳng, pháp Niết bàn bình đẳng thì phiền não, kiến chấp, tranh tụng cũng bình đẳng.

Lược giảng:

Bồ tát Văn Thù trả lời câu hỏi: Thế nào là Bồ tát chơn chánh tu hành? Ở đây, Bồ tát quán thấy các pháp đều là tự tánh bình đẳng, nên các pháp đều bình, dù là pháp thế gian, hay xuất thế gian, nhân hay quả, Thánh vị v.v… đều bình đẳng như nhau. Như Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tâm Phật và chúng sinh, ba thứ ấy không sai khác, là bình đẳng nhất như”.

Chánh văn:

Thiên tử hỏi: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi, thế nào là tranh tụng bình đẳng và phiền não cũng bình đẳng?

- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Vì không nên bình đẳng, vì vô tướng nên bình đẳng; vì vô nguyện nên bình đẳng. Tại sao? Vì không phân biệt khác.

- Này Thiên tử! Ví như đồ báu không, nên đồ bằng đất cũng không. Và trong đó không giới bình đẳng, nên không có khác. Và không có các thứ, vì không có hai tướng. Này Thiên tử! Thế thì phiền não không, tranh tụng không, không có sai khác, vì bình đẳng không có hai tướng.

Lược giảng:

Bồ tát Văn Thù trả lời câu hỏi:  Thế nào là tranh tụng bình đẳng và phiền não bình đẳng? Ở đây đặt ngược vấn đề là vì Niết bàn, sinh tử bình đẳng nên phiền não, tranh tụng bình đẳng. Nói như thế nghĩa là, vì Niết bàn có tướng giải thoát, không giải thoát, vô tướng giải thoát, vô tác, vô nguyện giải thoát. Nên Kinh Bát Nhã nói: “Thành Niết bàn có 3 cửa để vào là Không giải thoát, Vô tướng giải thoát, Vô tác giải thoát. Do ba môn giải thoát mà vào được thành Niết bàn”.

Chánh văn:

Thiên tử hỏi: Bồ tát có tu về Thánh đế không?

- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Này Thiên tử! Nếu các Bồ tát không tu về Thánh đế thì làm sao nói pháp Thanh văn?

- Này Thiên tử! Bồ tát tu hành về Thánh đế thì có quán. Trái lại, Thanh văn tu hành Thánh đế thì không có quán. Bồ tát tu hành Thánh đế thì nhàn nhã. Trái lại, Thanh văn tu hành Thánh đế thì không nhàn nhã. Bồ tát tu hành Thánh đế thì có duyên, còn Thanh văn tu hành Thánh đế thì không có duyên. Hơn nữa, Bồ tát tuy tu hành Thánh đế nhưng có chánh quán và không chứng thật tế chơn như. Bồ tát tu hành Thánh đế thì có phương tiện thiện xảo, không bỏ sinh tử và cầu Niết bàn. Đồng thời, Bồ tát khi tu hành Thánh đế cũng quán tất cả pháp.

Lược giảng:

Bồ tát Văn Thù trả lời câu hỏi của Thiên Tử: Bồ tát có tu hành Thánh đế không? Ngài khẳng định rằng có, nhưng sự tu Thánh đế của Bồ tát thì khác với sự tu Thánh đế của Thanh văn. Nói như thế có nghĩa là, Bồ tát tu Thánh đế mang tính tích cực, nên khác nhau là thế. Cụ thể như Kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền hạnh nguyện nói: Trên cơ sở vô lượng khổ đế, Bồ tát phát nguyện thứ nhất trong bốn thệ nguyện lớn là  “Chúng sinh vô biên nguyền độ hết”. Trên cơ sở vô lượng phiền não, Bồ tát thực hành lời nguyện thứ hai “Phiền não vô tận đều đoạn hết”. Trên cơ sở vô lượng đạo đế, Bồ tát thành lập lời nguyện thứ ba “Vô lượng Pháp môn đều học hết”. Trên ý nghĩa vô lượng diệt đế, Bồ tát phát nguyện thứ tư “Phật đạo vô thượng nguyện chứng thành”. Do đó, Bồ tát không bỏ sinh tử, chúng sinh, cũng không mong cầu chứng Niết bàn, vì chứng được lý Vô sở trụ của Bồ tát, để từ đó nhậm vận độ sinh không chướng ngại, tự tại, giải thoát, an trú lý không, nhưng là Chân không Diệu hữu.

Chánh văn:

Này Thiên tử! Ví như có một người từ bỏ thân chủ và bạn bè, riêng một mình muốn đi qua con đường hoang vắng, tâm họ rất sợ sệt không dám trở lại.

- Này Thiên tử! Thế thì Thanh văn cũng vậy, họ sợ sinh tử, không dám trở lại thế gian; xả bỏ tất cả chúng sinh không trở lại nơi sinh tử; không quán Phật pháp, không có thiện xảo phương tiện, tu hành Thánh đế một mình, không có bè bạn.

- Này Thiên tử! Như vị đại thương chủ có nhiều quyến thuộc và nhiều của cải, lương thực dồi dào làm cho nhiều người được lợi ích, muốn qua con đường hoang vắng.

- Này Thiên tử! Cũng vậy, Bồ tát là đại thương chủ, có nhiều quyến thuộc, thành tựu lợi ích lớn về pháp Phật; nhiều pháp tư lương, đầy đủ sáu pháp Ba la mật; thành tựu bốn pháp nhiếp hóa chúng sinh. Đồng thời, đều duyên quán khắp tất cả chúng sinh, xoay sự quán sinh tử trở lại chánh quán Phật pháp. Từ một cõi Phật này đến một cõi Phật khác, đầy đủ thiện xảo phương tiện, tu hành Thánh đế.

- Này Thiên tử! Như một vật thưa và mỏng rồi dùng hương của hoa Chiêm bà, Tu mạn, Bà sư để xông ướp thì mùi hương mau thoát ra. Này Thiên tử! Vậy thì hàng Thanh văn tu về Thánh đế thì sự mau chóng cũng như thế. Trong khi chưa đầy đủ sự nguyện cầu thì lại vào Niết bàn. Hơn nữa, họ cũng không ra ngoài mùi hương công đức về giới định tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến của Phật. Đồng thời, họ cũng không thể đoạn trừ được phiền não và tập khí.

- Này Thiên tử! Ví như Y ca thi, nếu dùng hương thiên bảo trầm thủy để xông ướp thì mùi hương thanh tịnh và tốt đẹp mãi; trải qua trăm ngàn năm trời người vẫn còn kính trọng.

- Này Thiên tử! Cũng thế, Bồ tát trải qua trăm ngàn muôn ức kiếp thường xuyên tu hành Thánh đế, ở khoảng giữa không vào Niết bàn. Vì muốn đầy đủ bổn nguyện, đồng thời vượt ra ngoài mùi hương về giới định tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến của Phật. Và cũng có thể đoạn trừ được kiết sử và tập khí. Và đồng thời cũng làm cho trời người, A tu la, Càn thát bà v.v… đều kính trọng.

Lược giảng:

Trên tinh thần tích cực tu tập Thánh đế của Bồ tát, Ngài Văn Thù Sư Lợi giải thích tiếp, chi tiết, cụ thể hơn như Kinh Bát Đại Nhân Giác nói: “Sinh tử vô lượng, khổ não vô biên, Bồ tát thường nguyện phát Đại thừa Tâm, nguyện thay thế khổ cho chúng sinh, thọ vô lượng khổ, khiến cho chúng sinh đạt được sự an vui cứu cánh”.

Với tâm nguyện như thế, phát tâm Bồ đề như thế, thì Bồ tát phải đầy đủ các phương tiện tu tập như bốn pháp Nhiếp hóa: Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, và 6 pháp Ba la mật: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Cũng như phát khởi Tâm Từ bi, hình thành hai pháp quán: Chúng sinh duyên từ, Pháp giới duyên từ. Lấy sự đau khổ của chúng sinh làm duyên để phát Tâm Từ bi, lấy sự bình đẳng của Pháp giới tánh làm thể mà phát Tâm Từ bi cứu độ chúng sinh một cách bình đẳng.

Nhất là trên cơ sở tu tập về Ngũ phần Pháp thân, Giới, Định, Tuệ, Giải thoát Tri kiến, làm thông đạt, tương ưng tự tánh, chớ không hình thành trên cơ sở tự tướng. Như Cổ đức nói: “Năm phần hương tỏa khắp 10 phương. Kết lại thành mây nguyện cúng dường. Pháp thân thanh tịnh 10 phương Phật. Mỗi niệm tương ưng lý Chơn thường”. Nói khác đi, như Kinh Pháp Bảo Đàn xác định: “Tự tâm thanh tịnh là Giới. Tự tâm không loạn là Định. Tự tâm chiếu soi muôn pháp là Tuệ. Tự tâm không phiền não là Giải thoát. Tự tâm không còn chấp thủ là Giải thoát tri kiến”.

Với sự thành tựu vô lượng công đức, vô lượng phương tiện như thế, nên Bồ tát: Nương thuyền Pháp thân vào trong sinh tử, cứu vớt chúng saunh, đưa họ đến bờ giải thoát (bờ Niết bàn – Kinh Bát Đát Nhân Giác). Và Bồ tát Văn Thù đã tóm tắt lại qua những ví dụ cụ thể như: Tu hành có bạn bè, không thối lui, quyết chí đến nơi, đến chốn (Bảo sở), quả vị Phật, lâu dài như mùi thơm thắm vào y… không trụ chấp các pháp phương tiện, để đạt cứu cánh viên mãn, làm cho chư thiên, loài người, các chúng sanh khác hoan hỷ cung kính, đảnh lễ cúng dường.

Chánh văn:

Bấy giờ Thiên tử Tịch Điều Phục Âm lại hỏi Văn Thù Sư Lợi như sau: Về chúng Thanh văn ở thế giới Bửu Chủ của Đức Bảo Tướng Như Lai Ứng chánh biến tri làm gì mà thích ở đấy?

Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Này Thiên tử! Ở thế giới ấy, hàng Thanh văn không trụ nơi lòng tin, cũng không dạy người khác tin; không hộ trì pháp giới, không phải là bậc bát nhơn (bát nhẫn); vượt khỏi bát tà, không phải Tu đà hoàn vượt khỏi ác đạo, không phải Tư đà hàm vãng lai giáo hóa chúng sinh; không phải A na hàm vì tất cả pháp không đến không đi, cũng không phải A la hán thọ sự cúng dường của tất cả ba ngàn thế giới. Và cũng không phải Thanh văn có thể giữ gìn tất cả pháp Phật nói. Hơn nữa, không đoạn dục nhưng không bị dục làm nóng bức. Không đoạn sân, nhưng không bị sân làm nóng bức. Đối với tất cả pháp rời những sự ám chướng. Không đoạn phiền não nhưng siêng năng thực hành tinh tấn và đoạn trừ tất cả phiền não chúng sinh, vĩnh viễn không còn tái sinh.

Đồng thời không còn tất cả sự thọ sinh, nhưng tùy tâm tự tại thọ sinh nơi nào muốn sinh. Hơn nữa, không có tướng chúng sinh muốn sinh. Mặt khác, không có tướng ngã nhơn và chúng sinh, nhưng mà giáo hóa chúng sinh không giả không chơn. Tất cả chúng sinh thanh tịnh phước điền. Không nghĩ không, nhưng tu chánh niệm; không sinh không diệt nhưng tu chánh đạo. Xa lìa thân tâm nhưng phát sinh thần túc thông. Biết tất cả căn cơ chúng sinh đến nơi bờ giải thoát, nhưng mà tu hành các căn. Đánh đổ tất cả mà tu thập lực. Biết khắp tất cả nhưng tu giác quán. Được vô vi không chứng đạo. Đến thật tế (chơn như) nhưng không trụ ở thiền định. Đến nơi pháp giới nhưng mà trụ ở huệ. Hết những thứ vô minh mà sinh sự sáng suốt. Không có hai thứ nhưng chứng giải thoát.

Hơn nữa, với nhục nhãn, nhưng thấy tất cả chúng sinh, tất cả cõi Phật và tất cả chư Phật. Với thiên nhãn thấy hết tất cả chúng sinh chết ở đây sinh ở cõi khác. Với huệ nhãn thấy hết sự sống chết của chúng sinh không có đến không có đi. Với pháp nhãn thấy hết tất cả pháp bình đẳng. Với Phật nhãn thấy rõ hết tất cả cảnh giới Phật. Với thiên nhĩ nghe hết tất cả pháp Phật và có thể thọ trì. Nhất tâm có thể biết tất cả chúng sinh có bao nhiêu tâm hành. Với túc mệnh trí biết hết tất cả kiếp quá khứ. Với trăm ngàn ức thần thông có thể vượt qua vô lượng cõi Phật. Phiền não đều hết nhưng không chứng giải thoát. Tuy có thể thấy nhưng không phải là chắc chắn. Tuy có nói năng nhưng không có văn tự. Tuy có nhớ nghĩ nhưng tâm không động.

Mặt khác, hình dung rất đẹp, các tướng trang nghiêm, công đức anh lạc uy đức khó bằng, tiếng tăm cao xa, và tịnh giới làm hương xoa, pháp thế gian không nhiễm, phi phiền não cũng không nhiễm, không có lời nói thô ác, dùng thần thông dạo chơi, nghe nhiều, học rộng, càng tăng trưởng, biện tài vang dội khéo biết biến hóa, diệt trừ tối tăm, sáng chói chiếu chói, nói pháp không ngại tổng trì tất cả, thường được chư Phật nhớ nghĩ và giữ gìn.

Hơn nữa, về niệm của Thanh văn thì thường xuyên chuyên niệm. Còn về đạo của Bồ tát niệm thời như biển cả, định thì như núi Tu di, nhẫn thời như đại địa, còn mạnh mẽ hàng ma, thì cũng như Đế Thích. Không si mê, khinh an, tịch tịnh như Phạm thiên. Không thể sánh bằng như hư không vào khắp tất cả mọi nơi.

Này Thiên tử! Ở cõi Phật Bửu Tướng, hạng Thanh văn như thế, có bao nhiêu công đức thì hơn hẳn cõi Ta bà nầy.

Khi nói pháp nầy xong, trong pháp hội lúc đó có 500 Tỳ kheo, 500 Tỳ kheo Ni, 500 Ưu bà tắc, 500 Ưu bà di và 5000 vị Thiên tử, có khuynh hướng về trí Thanh văn, và nói như sau: Thưa Thế Tôn! Chúng con nguyện muốn làm chúng Thanh văn ở cõi Bửu Chủ của Đức Bảo Tướng Như Lai.

Lúc đó, Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: Không phải tâm Thanh văn, mà có thể sinh về thế giới Bửu Chủ được. Do đó, các ông phải phát nguyện tâm Bồ đề mới có thể sinh về thế giới ấy được. Hơn nữa, những người sinh về thế giới ấy, đều là người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bấy giờ, những vị trên đều phát tâm Vô thượng thượng Chánh đẳng Chánh giác. Và Đức Như Lai thọ ký cho họ sẽ sinh về thế giới trên.

Lược giảng:

Bồ tát Văn Thù trả lời câu hỏi Thiên tử về các vị Thanh văn ở thế giới Bửu Chủ tu tập như thế nào? Đó là, các hàng Thanh văn ở đây chính là các vị Hồi tâm đại A la hán (Xem như Bồ tát Thắng Giải Hạnh), do đó, sự tu tập của các Ngài mang tính tích cực, vô tướng, an lạc, giải thoát. Nói như thế có nghĩa là không làm gì cả, nhưng là làm tất cả, thành tựu tất cả. Thành tựu tất cả nhưng không thành tựu gì hết, đó mới chính là Chân thật thành tựu. Như Kinh Bát Nhã nói: Tôn giả giảng Kinh Bát Nhã quá hay. Tôn giả Tu Bồ Đề nói: Ta đâu có giảng Kinh Bát Nhã. Thiên Đế nói: Ngài không giảng Kinh Bát Nhã, thì Tôi không nghe Kinh Bát Nhã. Tôn giả kết luận: Như vậy mới thật nói, thật nghe Kinh Bát Nhã. Cùng ý nghĩa, Hương Hải đại sư nói: “Trời Nam trước án ngồi chiễm chệ, suốt ngày Tâm chẳng nghĩ việc gì. Nào có phải giữ lòng cho tĩnh, chi bằng chẳng nghĩ việc chi đâu!”

Lược giảng:

Tóm lại, công hạnh của Thanh Văn tu tập như là Bồ tát tu tập, như Kinh văn đã giảng rõ. Điều căn bản là Bồ tát Văn Thù kết luận: Công đức của Thinh Văn ở thế giới Bửu Chủ, thì hơn hẳn hàng Thinh văn ở thế giới Ta bà, đó là điều đáng suy nghĩ.

Khi nghe Bồ tát Văn Thù trình bày công đức tu tập của hàng Thinh văn, Đại chúng thành tựu kết quả vô cùng lớn lao, và đồng phát nguyện sinh về thế giới Bửu Chủ. Bồ tát nhấn mạnh: Muốn sinh về thế giới Bửu Chủ phải phát tâm mong cầu quả vị Vô thượng Bồ đề, là thành tựu quả. Chớ không phải tâm niệm đơn thuần, bình thường mà sinh về thế giới ấy được. Và điều đặc biệt là những chúng sinh phát nguyện xong, được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thọ ký sẽ sinh về thế giới Bửu Chủ để tu hành theo hạnh Thanh văn Đại thừa, như Bồ tát Văn Thù đã trình bày.

Chánh văn:

Thiên tử hỏi về Tỳ ni của Bồ tát và Thanh văn.

Khi ấy, Tịch Điều Phục Âm hỏi Văn Thù Sư Lợi như sau: “Thế nào gọi là Bồ tát Tỳ ni? Và thế nào là Thanh văn Tỳ ni?”

Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp:

1. Sợ Tam giới là Tỳ ni của Thanh văn, còn thọ vô lượng sinh tử, muốn giáo hóa tất cả chúng sinh, đồng sanh trong cõi Ta bà, là Tỳ ni của Bồ tát.

2. Khinh chê công đức trang nghiêm là Tỳ ni của Thanh văn. Trái lại, chính mình tập hợp công đức trang nghiêm, là Tỳ ni của Bồ tát.

3. Tự đoạn tất cả phiền não và kiết sử cho chính mình, là Tỳ ni của Thanh văn. Còn muốn đoạn tất cả phiền não của tất cả chúng sinh, là Tỳ ni của Bồ tát.

4. Không nhớ nghĩ đến việc làm thành thục chúng sinh, là Tỳ ni của Thanh văn. Trái lại, luôn luôn nhớ nghĩ đến việc thành thục của tất cả chúng sinh và tất cả Phật pháp, là Tỳ ni của Bồ tát.

5. Không được tất cả chư thiên biết, là Tỳ ni của Thanh văn. Còn tất cả chư thiên trong ba ngàn đại thiên thế giới đều biết, là Tỳ ni của Bồ tát.

6. Xả bỏ tất cả loài ma là Tỳ ni của Thanh văn. Trái lại, tất cả loài ma trong ba ngàn thế giới đều khóc gào, tất cả chúng ma đều sanh lòng oán ghét, và đồng thời đều mốn sinh lòng đánh đổ, là Tỳ ni của Bồ tát.

7. Chỉ riêng một mình chiếu soi, là Tỳ ni của Thanh văn. Trái lại, muốn chiếu sáng khắp thế gian và thành tựu tất cả pháp, là Tỳ ni của Bồ tát.

8. Tự quán tâm mình, là Tỳ ni của Thanh văn. Còn quán tất cả pháp là Tỳ ni của Bồ tát.

9. Tuần tự Tỳ ni là Tỳ ni của Thanh văn. Trái lại, một niệm đều biết là Tỳ ni của Bồ tát.

10. Đoạn chủng tánh Tam bảo là Tỳ ni của Thanh văn. Trái lại, duy trì dòng giống Tam bảo, là Tỳ ni của Bồ tát.

11. Như bình sành đã bể không thể tu bổ lại được là Tỳ ni của Thanh văn. Trái lại, như đồ bằng vàng, thời bể có thể đúc lại được là Tỳ ni của Bồ tát.

12. Không phương tiện là Tỳ ni của Thanh văn. Còn thành tựu phương tiện là Tỳ ni của Bồ tát.

13. Không có thập lực, bốn pháp không sợ sệt là Tỳ ni của Thanh văn. Trái lại, thành tựu thập lực, bốn pháp không sợ sệt là Tỳ ni của Bồ tát.

14. Như cây trái ít nước là Tỳ ni của Thanh văn. Còn như vườn rừng, nhà gác, pháp nhạc đáng ưa thích là Tỳ ni của Bồ tát.

15. Không có sáu pháp Ba la mật và bốn Nhiếp pháp là Tỳ ni của Thanh văn. Trái lại, có đầy đủ sáu pháp Ba la mật và bốn Nhiếp pháp là Tỳ ni của Bồ tát.

16. Không đoạn tất cả tập khí là Tỳ ni của Thanh văn. Trái lại, diệt trừ tất cả tập khí là Tỳ ni của Bồ tát.

17. Này Thiên tử! Có hạn lượng để thu nhiếp, có ít pháp công đức, có ít giới định huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, là Tỳ ni của Thanh văn. Trái lại, không có hạn lượng để thu nhiếp, có vô lượng công đức, vô lượng giới định huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến là Tỳ ni của Bồ tát.

Lược giảng:

Bồ tát Văn Thù trả lời câu hỏi của Thiên tử về ý nghĩa và sự khác nhau giữa Tỳ ni Thinh văn và Tỳ ni Bồ tát. Bồ tát Văn Thù trả lời, gồm có 17 loại Tỳ ni Bồ tát và Thinh văn, nghĩa là 24 loại như sau: Chỉ đề cập giải thích loại Tỳ ni Bồ tát là hiểu ngược lại ý nghĩa Tỳ ni Thinh văn.

1. Tỳ ni Bồ tát là luôn luôn cứu độ chúng sinh, vì Tâm Từ bi. Nếu không có Tâm Từ bi cứu độ chúng sinh thì không phải là Bồ tát. Vì Bồ tát là Giác hữu tình, là chúng sinh có sự giác ngộ, hai là Hữu tình giác, là làm cho chúng sinh giác ngộ, thành tựu tự giác, giác tha, đưa đến giác hạnh viên mãn, là Phật.

2. Bồ tát Tỳ ni là luôn luôn dùng công đức để trang nghiêm Pháp thân, trang nghiêm Phật quả trên Pháp thân. Công đức là Từ bi hỷ xả, bố thí, Bát nhã v.v…

3. Bồ tát luôn luôn tâm niệm tự đoạn trừ phiền não, kiết sử chính mình và cho chúng sinh cùng hết phiền não giải thoát như mình.

4. Bồ tát luôn luôn muốn làm cho chúng sinh thành thục như mình. Như Kinh Pháp Hoa nói: Ta muốn cho chúng sinh đồng chứng Trí huệ Phật, cũng như Ta không khác.

5. Bồ tát Tỳ ni là làm cho tất cả Trời người đều biết. Có nghĩa, mỗi cất bước, động chân, khởi niệm đều chấn động đại thiên thế giới.

6. Bồ tát xem các loài ma là bậu bạn. Vì ma cũng là chúng sinh được hóa độ, và thành tựu, bình đẳng như nhau. Như Kinh Duy Ma Cật nói: Bồ tát xem Ma vương là bậu bạn, sống chung, cặp kè nhau, cùng vui chơi không có phân biệt, sai khác.

7. Bồ tát dùng trí tuệ chiếu soi khắp thế gian như ánh sáng mặt trời, mặt trăng chiếu khắp 10 phương thế giới. Như Trần Thái Tông Thiền sư nói: “Ngàn sông ngàn nước ngàn trăng hiện. Muôn dặm không mây muôn dặm thiền”.

8. Bồ tát quán chiếu các pháp: Pháp thế gian, pháp xuất thế gian, nhân quả Thánh phàm v.v… để thấy rõ là không. Như Kinh Bát Nhã nói: Tất cả pháp hữu vi giả có, như bọt nắng, ánh nắng, như điện chớp, sương mai, như mộng, như huyễn v.v... Kinh Kim Cang nói: “Hãy xem các pháp ở đời. Dường như huyễn mộng có rồi hườn không. Cũng như bọt nước trên sông. Như lằn điện chớp, nắng hồng, sương mai”.

9. Trong một niệm là đầy đủ các loại Giới, Tỳ ni. Vì bản thể thanh tịnh của Giới không rời Tâm niệm, Tự tánh thanh tịnh.

10. Bồ tát luôn luôn phát huy tự tánh sáng suốt, tự tánh thường trú, tự tánh thanh tịnh, chính là lý tánh Tam bảo, cho nên chứng thành Phật quả, nói pháp, cứu độ chúng xuất gia, nên ngôi Tam bảo luôn luôn hiện hữu, còn mãi không bao giờ gián đoạn. Như Hòa thượng Trường Đình nói: “Ta có nhà Tam bảo. Trong vốn không sắc tướng. Ngời ngời tự tại chẳng làm chi. Phơi phới rồi thì sẽ thấy kỷ”.

11. Tánh Bồ tát là Tánh giới, kiên cố bất hoại. Như Kinh Phạm Võng gọi là: Kim Cang Quang minh bảo giới, thuộc về Tâm giới (Kim Cang – Pháp thân đức Quang Minh = Bát nhã đức – Bảo giải thoát đức của Pháp thân).

12. Bồ tát đầy đủ tất cả phương tiện để tu hành trì giới, và thành tựu giới pháp, giới tướng, giới hành, giới quả. Tu tập quyền trí, phương tiện trí, lúc nào trì thì trì, khi nào khai thì khai…

13. Bồ tát thành tựu bốn pháp không sợ sệt là: Nhất thiết lậu tận, chứng đạo và giải thoát. 10 Trí lực của Phật: Xứ phi xứ trí lực, Tri tam thế nghiệp báo trí lực, Tri chủng giải thoát tam muội trí lực, Tri chư căn thắng liệt trí lực, Tri chủng chủng dục trí lực, Tri nhất thiết sở đạo trí lực, Tri túc mệnh trí lực, Thiên nhãn vô ngại trí lực, Vĩnh đoạn tạp nhiễm lậu trí lực.

14. Bồ tát là Pháp hải tạng, là Cam lồ thủy, là Bảo tạng, đầy đủ sự mong cầu cho chúng sanh.

15. Bồ tát đầy đủ 6 Pháp Ba la mật: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Bát nhã; và 04 Pháp Nhiếp hóa chúng sinh: Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự.

16. Bồ tát đoạn tất cả chủng tử, tập khí để thanh tịnh, thành tựu Phật quả.

17. Bồ tát đầy đủ Ngũ phần Tự tánh Pháp thân: Giới pháp thân, Định pháp thân, Huệ pháp thân, Giải thoát pháp thân, Giải thoát Tri kiến pháp thân. Theo Kinh Hoa Nghiêm là Tự tánh Pháp thân, Công đức Pháp thân, Biên hóa Pháp thân, Hư không Pháp thân, Pháp giới Pháp thân (Thật tướng Pháp thân).

Chánh văn:

Bấy giờ, Đức Thế Tôn tán thán ngài Văn Thù Sư Lợi: Hay hay, hay thay!

- Nầy Văn Thù Sư Lợi! Ông nói về Tỳ ni của Bồ tát rất hay. Nầy Văn Thù Sư Lợi, hãy nghe ta nói về ý nghĩa đầy đủ mà ông đã trình bày.

- Nầy Văn Thù Sư Lợi! Ví như có hai người, một người chỉ khen ngợi biển cả, còn một người chỉ khen ngợi dấu chân trâu.

- Văn Thù Sư Lợi! Ý ông nghĩ sao, giữa hai người này, mà người khen ngợi dấu chân trâu có bao nhiêu công đức?

-  Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: “Bạch Đức Thế Tôn, biển cả thì vô lượng, còn dấu chân trâu thời rất nhỏ, làm sao đáng khen được”.

- Đức Phật dạy: “Đúng vậy. Phải biết Tỳ ni của Thanh văn cũng như dấu chân trâu, và ít công đức, đồng thời không đáng khen ngợi. Và Thanh văn thừa như thế”.

- Nầy Văn Thù Sư Lợi! Ý ông nghĩ sao, người khen ngợi công đức của biển cả như vậy có nên không?

-  Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: “Bạch Đức Thế Tôn, biển cả thì công đức vô lượng, nên đáng khen ngợi vô lượng (biển cả nầy có vô lượng công đức và vô lượng sự khen ngợi)”.

- Đức Phật dạy: “Phải biết Tỳ ni của Bồ tát cũng lại như thế. Ví như biển cả có vô lượng công đức, vô lượng sự khen ngợi, thì phải biết Đại thừa cũng như vậy”.

Khi nói pháp nầy xong, 12 ngàn vị Thiên tử phát tâm vô thượng Chánh giác và nói như sau: “Bạch Đức Thế Tôn, chúng con sẽ tu học về Tỳ ni của Bồ tát như trên, để điều phục vô lượng tất cả chúng sinh”.

Lược giảng:

Cuối cùng là lời tán thán của Thiên tử về Pháp Tỳ ni mà Bồ tát Văn Thù vừa trình bày. Văn Thù xác định sự khen ngợi của chư Thiên là bình thường, không có gì đặc biệt, sâu sắc. Chỉ có người trí mới biết cách tán thán, là luôn luôn tán thán pháp Đại thừa, Pháp Tỳ ni của Bồ tát, vì nó là chánh nhân, chánh quả để thành Phật qua các ví dụ cụ thể và xác thực, siêu việt. Như Cổ đức nói: “Thanh tịnh dường như ngọc lưu ly. Dứt trừ sạch nghiệp trong ba kỳ. Thân tâm thanh tịnh trời xuân sắc. Phước huệ trang nghiêm chứng vô vi”.

Chánh văn:

Khi ấy, Tịch Điều Phục Âm hỏi Văn Thù Sư Lợi như sau: “Nay Ngài tu học Tỳ ni gì? Thanh văn, Duyên giác hay là Tỳ ni của Bồ tát?”

- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: “Nầy Thiên tử! Ý ông nghĩ sao, biển cả có bao giờ không nhận các dòng nước không?”

- Thiên tử đáp: “Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi, biển cả không bao giờ không nhận các dòng nước”.

- Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: “Nầy Thiên tử! Cũng thế, Tỳ ni của Bồ tát ví như biển cả có bao nhiêu Tỳ ni đều nạp thọ hết. Nghĩa là, Tỳ ni của Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát và tất cả Tỳ ni khác”.

- Thiên tử hỏi: “Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi, như trên nói Tỳ ni, vậy Tỳ ni nghĩa là gì?”.

- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: “Nầy Thiên tử! Tỳ ni là điều phục phiền não, và biết phiền não, nên gọi là Tỳ ni”.

- Thiên tử hỏi: “Nầy Văn Thù Sư Lợi: Thế nào tu điều phục phiền não và biết phiền não?”.

- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: “Hoặc tự vọng tưởng, hoặc tha vọng tưởng, và tự tha vọng tưởng, không nhớ nghĩ chơn chính. Và kỳ thực thì tự vọng tưởng, tha vọng tưởng điên đảo không thật. Nhưng phải biết kiến chấp ràng buộc thời vô minh làm đầu. Do đó, mới phát sinh phiền não. Trái lại, nếu không tự vọng tưởng, không tha vọng tưởng, và không tự tha vọng tưởng, chuyên tâm nhớ nghĩ chơn chánh, không tự tha vọng tưởng, đoạn trừ điên đảo và không trụ vào những kiến chấp, loại bỏ vô minh, không hành động theo ba nghiệp (thân, khẩu, ý), thời phiền não không khởi, thì đó chính là rốt ráo Tỳ ni”.

Lược giảng:

Sau khi Bồ tát Văn Thù trình bày về hai loại Tỳ ni của Bồ tát và Thinh văn, thì Thiên tử hỏi Bồ tát ba câu: Thứ nhất, Bồ tát Văn Thù tu học theo Tỳ ni nào? Bồ tát hay Thinh văn, dĩ nhiên Bồ tát phải trả lời là tu theo Tỳ ni Bồ tát. Tại sao? Vì Bồ tát Tỳ ni như biển cả, có thể tiếp thu và bao nhiếp tất cả. Có nghĩa là, Tỳ ni Bồ tát bao nhiếp Tỳ ni Thinh văn. Nói cách khác, giới Bồ tát bao hàm các loại giới khác, như Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Thức xoa, Sa di, Sa di Ni, giới Ưu bà tắc v.v… Về mặt quả đức, là chánh nhân thành tựu Phật quả. Còn giới Thinh văn chỉ đưa đến quả vị A la hán, hình thành Tam bảo xuất thế, Thinh văn Tam bảo. Trái lại, giới Bồ tát sẽ đưa đến Phật quả, hình thành Tam bảo mà Phật, Pháp, Tăng không thể rời nhau, cùng một thể bình đẳng, vô thượng tuyệt đối. Như Kinh Phạm Võng nói: “Giới sáng như vầng nhật nguyệt. Như chuổi báu ngọc châu. Chúng Bồ tát nhiều như số bụi. Tất cả đều do giới Bồ tát mà thành Phật”.

Câu thứ hai, Tỳ ni là gì? Bồ tát Văn Thù trả lời, Tỳ ni là điều phục phiền não và biết phiền não. Điều phục phiền não chủ yếu là ba nghiệp thân, miệng, ý, điều luyện cho thuần thục theo tịnh nghiệp, chính pháp, cũng có nghĩa là thanh tịnh, xa lìa 7 chi tội thân, miệng và ba tội của ý tham, sân, si, thành tựu 10 nghiệp lành. Cũng là chánh nhân hướng đến Bồ đề vô thượng, là thành Phật.

Nói khác đi, do Tỳ ni mà chế ngự vọng tưởng, điên đảo, phân biệt chấp ngã, chấp pháp, chính là phiền não, vô minh là căn bản. Như kinh Lăng Nghiêm nói: “Đối với tất cả cảnh, không sinh tâm phân biệt, thì phiền não không sinh, là biết vọng không theo, nên tạm được vắng lặng, an lạc, giải thoát, Niết bàn”, đấy cũng chính là nghĩa cứu cánh của Tỳ ni, của nghĩa điều phục.

Chánh văn:

Nầy Thiên tử! Còn dùng thánh trí mà biết phiền não là hư ngụy, xảo trá, không thật có, không chủ tể, không thật ngã, không liên hệ (không ràng buộc), không điểm đến, không điểm xuất phát (đi), không phương hướng, không phải không phương hướng, không phải trong, không phải ngoài, không phải trung gian có thể được, không tích tụ, không hình sắc, như thế nào thì gọi là biết phiền não.

- Nầy Thiên tử! Như người biết rắn độc, thì có thể trị được rắn độc ngay. Như vậy, nếu biết được loại giống của kiết sử, thời có thể trừ được phiền não ngay.

- Thiên tử hỏi: Thế nào gọi là giống của phiền não?

- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Vọng tưởng là dòng giống của phiền não. Do đó, nếu không vọng tưởng thì phiền não không sinh. Và nếu như phiền não không sinh thì không có phiền não, nếu không có phiền não thì không có nhà cửa, nếu không có nhà cửa thời không bị cháy, và cũng không có chỗ ở. Và nếu cũng không có chỗ ở, thì gọi là rốt ráo Tỳ ni. Và chính đó cũng là biết dòng giống của phiền não.

Lược giảng:

Còn khi đề cập đến biết phiền não, thì Bồ tát Văn Thù sử dụng từ Thánh trí để biết. Tại sao? Vì Thánh trí đã vượt qua sự chi phối của phiền não vô minh, tương ưng đại huệ, chiếu rõ vạn pháp đều là không, không tất cả tướng đối đãi, phân biệt, thành tựu Nhứt thiết trí, là trí biết tất cả các pháp là không. Phiền não cũng như rắn độc, biết là rắn độc thì dễ diệt trừ. Nhưng dòng giống của phiền não là vô minh, là vọng tưởng, do đó diệt trừ vọng tưởng, vô minh, thì phiền não không còn chỗ y cứ. Do đó, cũng không có đối tượng để diệt trừ, vì các pháp là không. Nên Pháp Dung đại sư nói: “Đoạn trừ phiền não càng thêm bịnh, xu hướng Chân như chính là tà. Sinh tử Niết bàn cũng như hoa đốm trong hư không. Khi sinh tử, Niết bàn đã huyễn hóa, thì nhân của chúng là phiền não vô minh, vọng tưởng cùng huyễn hóa không thật, cũng như giấc mộng, trong chiêm bao là không thật, giả có”.

Chánh văn:

Thiên tử hỏi: Nầy Văn Thù Sư Lợi, như vậy, thì điều phục phiền não là thật hay không thật?.

- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: “Nầy Thiên tử! Như người nằm chiêm bao, bị rắn độc cắn, bị đau nhức, nên uống thuốc để trừ độc, và khi nộc rắn hết, thì sự đau nhức cũng hết”.

- Nầy Thiên tử! Ý ông nghĩ sao, như người chiêm bao bị rắn độc cắn là thật hay không thật?

- Thiên tử đáp: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi, đó là không thật, vì không có thật, nên phải trừ độc gì?

- Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: Rắn độc không thật, công năng trừ độc cũng không thật, phải nên biết như vậy. Và Tỳ ni của thánh nhân cũng nên biết như thế.

Nầy Thiên tử! Như trên ông nói: Thế nào là điều phục phiền não là thật hay không thật? Nầy Thiên tử! Hoặc ngã, vô ngã, phiền não, không phiền não. Và nếu ngã không thật thì phiền não cũng không thật; Và nếu trong ấy, ngã, vô ngã, phiền não, không phiền não. Và nếu ngã không thật thì phiền não cũng không thật; Và nếu trong ngã ấy, ngã, vô ngã, phiền não, không phiền não, đều không thể có được, như vậy thì nên điều phục cái gì? Tại sao? Nầy Thiên tử! Tất cả pháp đều là vắng lặng, vì không có sở hữu. Tất cả pháp đều là vắng lặng, vì không có sở hữu. Tất cả pháp đều là vô tận, vì vô sinh. Tất cả pháp không diệt, vì không có chắc thật. Tất cả pháp không tạo tác, vì không có tác giả. Tất cả pháp không tạo tác, vì không có thật ngã. Tất cả pháp vô ngã, vì không có chủ tể. Tất cả pháp là vô chủ, vì như hư không. Tất cả pháp không đến, vì không có thể tánh. Tất cả pháp không đi, vì không có biên giới. Tất cả pháp không trụ, vì không chỗ trụ. Tất cả pháp không trụ, vì không sinh diệt. Tất cả pháp là vô vi, vì vô lậu.

Nầy Thiên tử! Tất cả pháp là không ban cho, vì rốt ráo điều phục.

Lược giảng:

Trả lời câu hỏi thứ ba là điều phục phiền não là thật hay không thật. Dĩ nhiên, như trên đã đề cập, điều phục phiền não là giả không thật, vì các pháp là huyễn hóa, như cảnh hiện trong giấc chiêm bao.

Tóm lại, như Pháp Dung đại sư nói: “Sáng suốt, vắng lặng khắp hà sa. Phàm Thánh cùng chung ở một nhà. Một niệm không sinh toàn thể hiện. Sáu căn vừa động bị che mờ. Đoạn trừ phiền não càng thêm bịnh. Xu hướng Chân như chính là tà. Tùy thuận chúng sinh không chướng ngại. Niết bàn, sinh tử như không hoa (Hoa đốm trong hư không)”. Hiểu được ý này chính là hiểu được không tướng của các pháp, cũng là sự vắng lặng cứu cánh của các pháp. Với tinh thần vô tướng, ly tướng như thế, chính là nghĩa cứu cánh của Tỳ Ni, cũng là nghĩa cứu cánh của điều phục.

Chánh văn:

Bấy giờ, Tịch Điều Phục Âm hỏi Văn Thù Sư Lợi như sau: “Tất cả pháp lấy cái gì làm cửa?”

Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp:

- Không chơn chánh tu hành làm cửa, vì tăng trưởng sinh tử.

- Chơn chánh tu hành làm cửa, vì tăng trưởng được Niết bàn.

- Chơn chánh tu hành làm cửa, vì được tự tại.

- Không chơn chánh tu hành làm cửa, vì không được tự tại.

- Như sinh mê hoặc làm cửa, vì che tối và chướng ngại.

- Được giải thoát làm cửa, vì không chướng ngại.

- Vọng tưởng làm cửa, vì tăng trưởng phiền não.

- Không vọng tưởng làm cửa, vì được giải thoát.

- Có thức làm cửa vì có kiết sử.

- Không thức làm cửa vì không có kiết sử.

- Hiểu biết làm cửa, vì nhiều công việc.

- Vắng lặng làm cửa, vì tất cả đều vắng lặng.

- Kiến chấp làm cửa, vì tăng trưởng kiêu mạn.

- Không làm cửa vì diệt kiêu mạn.

- Ác tri thức làm cửa vì sinh các pháp ác.

- Thiện tri thức làm cửa vì sinh các pháp lành.

- Tà kiến làm cửa vì sinh ra gốc khổ.

- Chánh kiến làm cửa vì sinh ra các gốc lành.

- Keo kiết làm cửa vì sinh ra bần cùng.

- Bố thí làm cửa vì sinh ra giàu có.

- Hủy giới làm cửa vì sinh ra đường ác.

- Giữ giới làm cửa vì sinh vào cõi lành.

- Tranh tụng làm cửa vì chướng các pháp.

- Nhẫn nhục làm cửa vì tăng trưởng pháp thù thắng.

- Lười biếng làm cửa vì khiến tâm nhơ bẩn.

- Siêng năng làm cửa vì khiến tâm hồn không nhơ bẩn.

- Giác quan làm cửa vì sinh tán loạn.

- Thiền định làm cửa vì tâm định một chỗ.

- Không trí huệ làm cửa vì như dê ngu.

- Có trí huệ làm cửa vì có 37 phẩm trợ đạo.

- Trí huệ làm cửa vì không chướng ngại.

- Bi làm cửa vì ngay thẳng không hư ngụy.

- Hỷ làm cửa vì tập hợp phước báu.

- Xả làm cửa vì rời hẳn sự thương ghét.

- Chánh niệm làm cửa vì không mất căn lành.

- Chánh đoạn làm cửa vì chơn chánh tu hành.

- Thần túc thông làm cửa vì tâm nhẹ nhàng.

- Căn làm cửa vì tin là đầu mối.

- Lực làm cửa vì đánh đỗ tất cả phiền não.

- Giác làm cửa vì tùy thuận biết các pháp.

- Vào thánh đạo làm cửa vì ra khỏi tất cả phi đạo.

- Bồ đề làm cửa vì là tất cả Phật pháp.

- Nhiếp thu tất cả pháp làm cửa vì đối với các pháp được tự tại.

- Nhiếp hóa chúng sinh làm cửa vì diễn thuyết các pháp.

- Phương tiện thiện xảo làm cửa vì ở nơi phi đạo.

- Trí huệ độ (Ba la mật) làm cửa vì để đến nơi giải thoát.

- Sáu Ba la mật làm cửa vì là Đại thừa.

- Sáu thứ thần thông làm cửa vì trí huệ sáng suốt.

- Pháp trí nhẫn làm cửa vì không theo trí của người khác.

Lược giảng:

Thiên tử hỏi Bồ tát Văn Thù về cửa của tất cả pháp. Cửa là phương tiện phát xuất và thâm nhập, và phát xuất những hành động tốt, những thành quả tốt, cũng đôi khi phát sinh, thâm nhập những việc xấu, ác, bất thiện, nguy hại đến tự thân, tự tâm, sự an lạc, giải thoát, chứng quả Bồ đề, thành Phật và tất cả pháp gồm pháp thế gian, pháp xuất thế gian. Chủ yếu là tự tâm, tự tánh, bản thể Tâm pháp giới của chúng sinh.

Qua đó, Bồ tát Văn Thù trả lời câu hỏi, gồm có 48 pháp môn, như là 48 cửa để phát xuất, thâm nhập các hành động, pháp lành hay pháp xấu, pháp ác. Nếu là pháp lành thì đưa đến giác ngộ, giải thoát, thành Phật; còn là pháp ác, thì làm cho chúng sinh luân hồi đau khổ.

+ Không chân chánh tu hành, vì tăng trưởng sinh tử. Như trên đã đề cập, không chân chánh tu hành là thấy có ngã (mình), pháp (đối tượng), tạo thành phân biệt, ngã chấp, pháp chấp. Ngã chấp thuộc về phiền não, tạo nghiệp, chướng Bồ đề, chướng Niết bàn, giải thoát. Pháp chấp là vô minh, chướng về Phật tánh, Pháp tánh, Chân như thanh tịnh.

+ Chơn chánh tu hành là ngược lại ý nghĩa trên, vì tăng trưởng được Niết bàn, giải thoát tự tại. Như Cổ đức nói: “Khi không còn chấp Tâm là cảnh. Mới ngộ lý sắc không. Muốn biết bản lai thể. Nhìn mây trắng với non xanh”.

+ Mê hoặc làm cửa vì Mê gồm có: Mê lý, mê sự. Mê lý, theo Hữu bộ là mê lý Tứ đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Theo Đại chúng bộ là mê Chân như, Phật tánh, Bồ đề, Niết bàn. Nên Kinh A Hàm, Niết Bàn nói: “Xưa Ta cùng các ông. Vì không ngộ Tứ đế. Nên phải bị sinh tử. Nay tỏ ngộ Tứ đế. Nên sinh tử không còn. Sinh tử đã hết rồi. Không còn thọ thân sau”. Mê sự là chấp các cảnh giới, các pháp: Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp cho là thật có, hình thành chấp ngã, chấp pháp. Phiền não, vô minh, tạo nghiệp bị sinh tử luân hồi. Như Trần Thái Tông nói: “Mũi đắm mùi hương, tai đắm tiếng. Mắt mê sắc đẹp, lưỡi thích mùi. Cứ lo làm khách phong trần mãi. Mới biết xa quê mấy dặm đường”.

Để cô đọng lại vấn đề, các cửa thiện pháp ở đây có thể tóm tắt không ngoài các pháp là 6 Ba la mật: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Do sáu pháp nầy mà thành Phật, như Kinh Hoa Nghiêm nói: “Xưa vì chúng sinh khởi đại bi. Tu hành Bố thí Ba la mật. Nên được tướng tốt, thân đẹp đẽ. Chúng sinh trông thấy đều vui mừng. Xưa vì chúng sinh khởi đại bi. Tu hành Trì giới … Bát nhã Ba la mật. Nên được tướng tốt, thân đẹp đẽ. Chúng sinh trông thấy đều vui mừng”.

Bốn Tâm vô lượng: Từ, Bi, Hỷ, Xả. Như Kinh Từ Bi nói: “Tâm từ rãi khắp muôn phương. Tâm Bi rãi khắp 10 phương chan hòa. Trong lòng nở một đóa hoa. Chúng sinh an lạc, chan hòa tình thương”.

Và 37 Phẩm trợ đạo Pháp là:

- Bốn Niệm xứ (4 đối tượng Quán niệm): Quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã, xa lìa bốn thứ điên đảo của chúng sinh và hàng Nhị thừa, thành tựu bốn đức Niết bàn là Chân thường, Chân lạc, Chân ngã và Chân tịnh (Kinh Niết Bàn).

- Bốn thứ siêng năng chân chánh: Đoạn trừ những điều ác đã sinh. Ngăn chận những điều ác chưa sinh, không sinh. Phát triển những điều lành đã sinh. Tìm phương tiện làm cho những điều thiện chưa sinh có cơ hội phát sinh.

- Bốn pháp đưa đến chứng thần thông như ý: Dục như ý túc, Tinh tấn như ý túc, Định như ý túc, Huệ như ý túc.

- Năm căn: Tín, Tinh tấn, Niệm, Định, Tuệ căn.

- Năm lực: Tín lực, Tinh tấn lực, Niệm lực, Định lực, Tuệ lực.

- Bảy giác phần: Trạch pháp, Niệm, Tinh tấn, Khinh an, Hỷ, Xả, Giác phần (giác chi).

- Tám đạo Chân chính: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Như Khế kinh nói: “Bát Chánh đạo thù thắng. Tứ đế lý cao siêu. Trên hết trong bậc Thánh. Phật nhãn là tối thượng”.

Ngoài ra, những pháp còn lại cùng những trợ pháp phụ thuộc vào các pháp căn bản nên. Và cũng từ đấy phát sinh những công đức, những thành quả không ngoài bốn đức là Trí huệ, Phúc đức, Niết bàn, Phật quả (Vô thượng Bồ đề). Thế nên Cổ đức nói: “Muôn hạnh trông về Bi Trí Dũng. Những mong sáng tỏ bậc siêu trần”. Hay nói khác hơn, như Đại Nam Thiền sư dạy: “Cần hỏi ai lương tâm ấy sáng soi như nhật nguyệt. Cõi lòng nầy rộng lớn đức Từ bi”. Tóm lại, tất cả Pháp không ngoài tự tâm tự tánh của chúng sinh. Tùy điều kiện nó phát triển theo hướng thiện hay hướng ác. Do đó, người tu hành, nhất là Bồ tát, thì điều tiên quyết là phát huy tính thiện, công đức thiện sẵn có trong tâm để thành tựu quả lành, giác ngộ, giải thoát thành Phật và cứu độ chúng sinh thành Phật đạo. Như Kinh Pháp Hoa nói: “Ta muốn cho chúng sinh đồng chứng được Phật huệ cũng như Ta không khác”.

Chánh văn:

Thiên tử hỏi: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Gì là cửa của Pháp giới?

- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: “Nầy Thiên tử! Cùng khắp làm cửa vì là cửa pháp giới”.

- Thiên tử hỏi: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Pháp giới có biên giới không?

- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: “Nầy Thiên tử! Ý ông nghĩ sao, hư không có biên giới không?”

- Thiên tử đáp: Không.

- Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: Cũng như hư không không có biên giới, thế thì pháp giới cũng không có biên giới.

- Thiên tử hỏi: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi, Ngài biết Pháp giới chăng?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Pháp giới không biết Pháp giới.

- Thiên tử hỏi: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi, Ngài biết được pháp gì mà có biện tài luận như thế?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Nầy Thiên tử! Ý ông nghĩ sao, âm thanh biết pháp gì mà phát ra âm thanh như thế?

- Thiên tử đáp: Âm vang thì không biết, nhưng mà phát ra âm thanh.

Ngài Văn Thù nói: Nầy Thiên tử! Đúng vậy. Bồ tát do duyên chúng sinh nên mới nói pháp.

- Thiên tử hỏi: Ngài trụ ở đâu mà nói như thế?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Này Thiên tử! Cũng như Đức Như Lai hóa ra chỗ trụ của một người mà nói có trụ. Thế thì sự trụ của ta cũng vậy.

- Thiên tử nói: Như vậy thì Đức Như Lai hóa ra một người không chỗ trụ.

- Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: Này Thiên tử! Đức Như Lai hóa ra không chỗ trụ, nhưng mà có nói ra. Và tất cả pháp không có chỗ trụ nhưng mà có nói ra.

- Thiên tử hỏi: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi, nếu tất cả pháp không có chỗ trụ thì Ngài trụ vào đâu để thành Vô thượng đạo?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Ta trụ ở Ngũ vô gián mà thành Vô thượng đạo.

- Thiên tử hỏi: Ngũ vô gián trụ ở đâu?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Ngũ vô gián trụ ở chỗ không căn bản.

- Thiên tử hỏi: Thưa Văn Thù Sư Lợi, nếu trụ Ngũ vô gián thì đọa vào địa ngục?

- Này Thiên tử! Nay ta cũng trụ ở chỗ Ngũ vô gián, và đồng thời Bồ tát cũng trụ ở chỗ Ngũ vô gián để thành vô thượng đạo.

Thế thì, những gì là năm: Tức từ sơ phát tâm cầu Vô thượng đạo, khoảng giữa không đạo vào hàng Thanh văn, Duyên giác. Đó là Vô gián thứ nhất. Ta nên cứu tế chúng sinh ở khoảng giữa không lười biếng, đó là Vô gián thứ hai. Xả bỏ tất cả vật sở hữu, không có bỏn xẻn, đó là Vô gián thứ ba. Biết các pháp vô sinh, ở khoảng giữa không cùng chúng ở chung, đó là Vô gián thứ tư. Hoặc biết, hoặc thấy, hoặc đoạn, bình đẳng chánh giác, dùng một niệm tương ưng huệ mà biết ở khoảng giữa không khởi lên phân biệt, thì nhất định thành chánh giác, đó là Vô gián thứ năm. Hơn nữa, nếu Bồ tát trụ ở Ngũ vô gián trên thì thành tựu Chánh đẳng Chánh giác.

Thiên tử hỏi: Này Văn Thù Sư Lợi, trên thực tế, nếu phàm phu trụ ở Ngũ vô gián thì đọa vào địa ngục, còn Bồ tát cũng trụ Ngũ vô gián mà có thành tựu Vô thượng Chánh giác không?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Có.

- Thiên tử hỏi: Vì nhơn duyên gì?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Này Thiên tử! Vì tất cả pháp không. Vì hiểu là không nên được Bồ đề. Vì tất cả pháp là vô nguyện, vô tướng, không phải là hữu vi, không sinh khởi, không do duyên sinh. Vì biết được nhân duyên ấy nên gọi là Bồ đề.

Lược giảng:

Bồ tát Văn Thù trả lời câu hỏi của Thiên tử, liên quan đến Pháp giới. Khi nói đến từ Pháp giới, phải hiểu theo tinh thần Kinh Hoa Nghiêm: “Không một pháp nào không từ Pháp giới sinh, cuối cùng không một pháp nào không trở về với Pháp giới” (Vô bất tùng thử Pháp giới lưu, diệt bất hoàn quy thử Pháp giới). Do đó, Pháp giới là bản thể, là chân tâm, cùng khắp mọi nơi, như hư không rộng lớn vô lượng vô biên, là chân lý tuyệt đối, không có chủ thể và đối tượng, nên không có vấn đề biết và cái được biết, là vì vô tướng, nên không thấy, và không chỗ trụ, là vô trụ. Như Kinh Hoa Nghiêm nói: “Pháp thân cùng khắp nơi Pháp giới. Tất cả chúng sinh và quốc độ ba đời đều còn đủ không hề thiếu. Cũng không có hình, sắc, nên không thể thấy”. Dù không có thấy biết, là vô tướng, nhưng vẫn có tác dụng không thể nghĩ bàn. Nói theo Bát nhã là “Chân không Diệu hữu”.

Vấn đề an trú, trên cơ sở lý tánh thì không có chỗ trụ. Nhưng ở đây Phật cũng không chỗ trụ, Bồ tát cũng không chỗ trụ. Dù là trụ Vô gián địa ngục. Vì đạt được lý nầy, nên nói là chúng sinh trụ Vô gián, thì đọa địa ngục. Thinh văn, Duyên giác cũng thế. Chỉ có Bồ tát là không, mà còn chứng quả Vô thượng Bồ đề, thành Phật. Rõ ràng là trụ NgũVô gián ở đây là hoàn toàn về mặt lý tánh, như Kinh văn đề cập, có 5 điều Vô gián:

- Từ khi phát tâm Bồ đề … không đọa vào hàng Thinh văn, Duyên giác. Cứu tế chúng sinh không lười biếng.

- Xả bỏ tất cả những sở hữu. Tất cả pháp, không cùng ở chung với chúng. Niệm niệm tương ưng với Huệ, không bao giờ khởi lên phân biệt, để đưa đến thành Phật. Hơn nữa, vì đạt được lý không, nên thành tựu không tướng. Xa lìa tất cả, nhưng là tất cả. Như Kinh Kim Cang nói: “Lìa tất cả tướng, nhưng là tất cả Pháp. Thấy tất cả tướng là phi tướng, thì thấy được Như Lai tự tánh”.

Chánh văn:

Thiên tử hỏi: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi, ai tin pháp này?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Đức Như Lai còn không tin, huống hồ Thanh văn.

- Thiên tử hỏi: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi, ai hiểu pháp này?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Hạng người không còn ngã tướng thì hiểu pháp này.

- Thiên tử hỏi: Ai tin pháp này.

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Hạng không trụ bên này, không trụ bên kia thì tin được pháp này.

- Thiên tử hỏi: Nếu không trụ bên này, không trụ bên kia thì ai nhớ tưởng pháp này?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Hạng người đối với pháp không nhớ tưởng thì trụ pháp này.

- Thiên tử hỏi: Ai giữ gìn?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Người không giữ gìn tất cả kiết sử thì giữ gìn được.

- Thiên tử hỏi: Kinh này nên đến tay những người nào?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Nên đến tay tất cả chúng sinh và những người trì pháp.

- Thiên tử hỏ: Hình sắc của chúng như thế nào?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Này Thiên tử! Chúng có hình sắc nhưng không phải là ấm giới nhập và sắc.

- Thiên tử hỏi: Chúng có hành gì?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Chúng có không hành, vô tướng hành và vô nguyện hành.

- Thiên tử hỏi: Chúng đến chỗ nào?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Chúng đến tất cả mọi nơi, đến tất cả tâm hành động của chúng sinh và đến nơi không đến được.

- Thiên tử hỏi: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi, Bồ tát có thối thất không?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Này Thiên tử! Nếu Bồ tát thối thất về Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì không có sự kiện ấy.

- Thiên tử hỏi: Ai là người thối thất?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Tất cả các thứ phiền não thì thối thất. Và hàng Thanh văn, Duyên giác cũng thối thất.

- Thiên tử hỏi: Vậy ai là người không thối thất?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Những người có Tam muội (Chánh định) thì không thối thất.

- Thiên tử hỏi: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi, những gì là Tam muội?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Không hai không khác.

- Thiên tử hỏi: Thưa Văn Thù Sư Lợi, nếu như tất cả không khác, vậy thì cái gì là khác?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Này Thiên tử! Người không biết tất cả pháp bình đẳng rồi phân biệt thành hai. Và đồng thời họ thực hành ở nơi hai hạnh, và đọa (rơi) vào hai hạnh. Nếu họ biết là bình đẳng thì họ không thực hành riêng khác. Hơn nữa, nếu biết bình đẳng thì họ đến được nơi bình đẳng.

- Thiên tử hỏi: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi, có Bồ tát nào đầy đủ phiền não mà thành tựu Bồ đề không?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Có.

- Thiên tử hỏi: Ai vậy?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Này Thiên tử! Nếu Bồ tát đoạn kiết sử thì là Thanh văn. Ngược lại, nếu Bồ tát biết tất cả phiền não kiết sử của chúng sinh mà khởi lòng đại bi càng mạnh mẽ, và phát tâm vô thượng chánh chơn, đó là có Bồ đề.

- Thiên tử hỏi: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi, có ai tham lam bỏn xẻn mà thành tựu Bố thí Ba la mật không?

- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Có.

- Thiên tử hỏi: Ai vậy?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Này Thiên tử! Nếu Bồ tát không bỏ tâm Bồ đề, nhưng nhiếp hộ chúng sinh, bỏn xẻn như vậy thì gọi là Bố thí Ba la mật.

- Thiên tử hỏi: Có ai phá giới mà gọi là Trì giới Ba la mật không?

- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Có.

- Thiên tử hỏi: Ai vậy?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Nếu Bồ tát làm nhiều lợi ích cho chúng sinh mà không quán sát về giới của mình thì gọi là Trí giới Ba la mật.

- Thiên tử hỏi: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi, có Bồ tát nào xả bỏ sự kham nhẫn mà gọi là Nhẫn nhục Ba la mật không?

- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Có.

- Thiên tử hỏi: Ai vậy?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Nếu Bồ tát xả bỏ cấm giới của ngoại đạo, an trụ vững chắc trong giới của Phật, đó gọi là Nhẫn nhục Ba la mật.

- Thiên tử hỏi: Có Bồ tát nào lười biếng mà thành tựu Tinh tấn Ba la mật không?

- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Có.

- Thiên tử hỏi: Ai vậy?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Nếu Bồ tát đối với hàng Thanh văn, Duyên giác sinh tâm lười biếng. Nhưng trái lại, siêng năng nỗ lực tu tập Vô thượng Chánh đạo, đó gọi là Tinh tấn Ba la mật.

- Thiên tử hỏi: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi, có ai tâm không định mà gọi là Thiền định Ba la mật không?

- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Có.

- Thiên tử hỏi: Ai vậy?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Nếu Bồ tát ở trong mộng, không sinh tâm Thanh văn, Duyên giác. Bồ tát tâm không định này, thì gọi là Thiền định Ba la mật.

- Thiên tử hỏi: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi, có Bồ tát nào không trí huệ mà gọi là Trí huệ Ba la mật không?

- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Có.

- Thiên tử hỏi: Ai vậy?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Bồ tát không có trí huệ là không làm các pháp thế gian, như các loại chú thuật, trù ếm, làm điên cuồng tất cả pháp huệ của chúng sinh và Bồ tát này thành tựu đầy đủ về Nhất thiết Chủng trí. Như thế gọi là Bát nhã Na la mật.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi ngài Văn Thù Sư Lợi như sau: Hay thay, hay thay! Như lời ông vừa trình bày, thì thật là khéo nói, về việc làm và không nên làm.

Này Văn Thù Sư Lợi! Ông hãy lắng nghe ta nói một chút. Này Văn Thù Sư Lợi, như người đói khát chẳng thà chịu đói chứ không ăn thức ăn có thuốc độc. Do đó, Bồ tát cũng vậy, chẳng thà bỏn xẻn, phá giới, sân hận, tranh tụng, lười biếng. vọng tâm, loạn tâm, ngu si, không có trí huệ, chứ không trụ vào Thanh văn, Duyên giác mà được Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ. Tại sao? Vì Bồ tát đối với tất cả những pháp trên phải sinh tâm sợ sệt.

Lược giảng:

Vấn đề quan trọng cần lưu ý và lý thú tiếp là Thiên tử hỏi Bồ tát Văn Thù về những quan điểm trái ngược với lý Ba la mật, nhưng Bồ tát Văn Thù khẳng định là có, nhưng có trên mặt lý Đại thừa, do đó vẫn đưa đến kết quả giải thoát thành Phật. Vì Bồ tát, pháp Lục độ là nhân, đưa đến quả vị Phật là quả. Đó là lý bỏn xẻn… không bỏ Tâm Bồ đề, nhưng nhiếp hộ chúng sinh … thành tựu Bố thí Ba la mật.

Làm lợi ích chúng sinh mà không quán về giới của mình, kỳ thực theo quan điểm ba loại giới của Bồ tát: Làm lợi ích chúng sinh là Giới, do đó thành tựu ý nghĩa Trì giới Ba la mật. Bồ tát xả bỏ giới cấm của ngoại tà giáo, mà an trụ vững chắc Phật đạo, là Nhẫn nhục Ba la mật. Bồ tát lười biếng tu theo hạnh Thinh văn, Duyên giác, nhưng siêng năng tu hạnh Vô thượng Bồ đề, là Tinh tấn Ba la mật. Bồ tát ở trong mộng, không sinh tâm Thinh văn, Duyên giác, với tâm như thế, nhưng vẫn thành tựu Thiền định Ba la mật. Bồ tát không có trí huệ, lầm các pháp thế gian như chú thuật, trù ếm, làm điên cuồng v.v… mà Bồ tát lo thành tựu Nhất thiết Chủng trí, là Trí tuệ Ba la mật.

Chánh văn:

Thiên tử bạch Phật: Thưa Thế Tôn, Bồ tát không sở kiết sử sao?

- Đức Phật đáp: Này Thiên tử! Sợ chứ. Nhưng đối với hàng Thanh văn, Duyên giác thì Bồ tát lại càng sợ hơn.

- Này Thiên tử! Ý ông nghĩ sao, như người giữ gìn mạng sống, thì họ sợ chặt đầu hay là sợ chặt tay chân?

- Thiên tử bạch Phật: Người ấy sợ chặt đầu chứ không sợ chặt tay chân. Tại sao?

- Thưa Đức Thế Tôn, vì người bị chặt tay chân còn có thể tu phước nghiệp báo. Do nhân duyên đó nên được sinh vào cõi Trời. Thưa Thế Tôn, trái lại, nếu người bị chặt đầu coi như mạng sống không còn. Do đó, không tu đức hạnh được.

- Đức Phật dạy: Đúng vậy, này Thiên tử, Bồ tát thà chịu phá giới, chứ hoàn toàn không bỏ tâm Nhất thiết trí. Chẳng thà chịu phiền não chứ hoàn toàn không chịu làm Vô lậu A la hán.

- Thiên tử tán thán rằng: Thưa Thế Tôn, hy hữu thay, sự thực hành của Bồ tát hơn hẳn thế gian. Thưa Thế Tôn, các vị Thanh văn trì giới, nỗ lực siêng năng v.v… thì ngược lại, tức là Bồ tát phá giới và lười biếng vậy.

Đức Phật dạy: Này Thiên tử, như ông vừa nói, thật đúng vậy. Ví như thuốc của người nghèo là thuốc độc của Chuyển luân Thánh vương. Hơn nữa, này Thiên tử, hàng Thanh văn siêng năng đoạn trừ phiền não cũng vẫn không thể làm an lạc chúng sinh ở cõi Diêm phù. Huống là đối với tất cả chúng sinh. Này Thiên tử, ví như vị đại thương chủ có nhiều của cải và nhiều đất đai, nếu như bố thí tất cả thì mọi người được nhiều an lạc và được nuôi dưỡng đầy đủ. Thế thì Bồ tát cũng vậy, khi thực hành đại bi, khởi lòng từ đối với tất cả chúng sinh, siêng năng tu hành; dưỡng dục vô lượng chúng sinh khiến họ được an vui thế gian và xuất thế gian.

Bấy giờ, ngài Đại Ca Diếp bạch Phật: Thưa Thế Tôn, những hàng Thanh văn chứng pháp vô vi, thế nào Bồ tát hữu vi hơn được hàng Thanh văn vô vi?

Đức Phật dạy: Này Ca Diếp, nay Ta nói thí dụ. Người có trí nhơn đây hiểu được. Ví như có người chẻ sợi lông ra làm 100 phần, rồi lấy 1% của sợi lông này, chấm lấy sinh tô đầy trong bốn biển. Này Ca Diếp, ý ông nghĩ sao, người lấy một phần sợi lông này chấm lấy sinh tô trong bốn biển có nghĩ rằng: Ta lấy được nhiều, chứ không phải sinh tô trong bốn biển nhiều không?

Ngài Ca Diếp thưa: Bạch Thế Tôn không.

Đức Phật dạy: Này Ca Diếp, ý ông nghĩ sao, trong hai phần sinh tô này, cái nào hơn, cái nào lớn hơn; cái nào nhiều hơn và cái nào có giá trị to lớn hơn?

- Ngài Ca Diếp thưa: Giả sử lấy ngàn ức do tuần sinh tô thì sinh tô trong bốn biển cũng lớn, cũng nhiều và có giá trị to lớn hơn. Huống hồ chỉ dùng một phần của sợi lông để lấy một giọt sinh tô trong bốn biển.

- Đức Phật dạy: Này Ca Diếp, thế thì lấy 1% của sợi lông lấy một giọt sinh tô, thì hàng Thanh văn có  bao nhiêu trí huệ vô vi cũng như vậy. Còn trí Phật biết được thì cũng như sinh tô trong bốn biển cả. Và Bồ tát có bao nhiêu công đức thiện căn hữu vi cũng như thế. Đồng thời, vì dùng để hồi hướng về Vô vi trí (Nhất thiết Chủng trí).

- Này Ca Diếp, ví như con kiến ngậm một hạt gạo, so với mặt trăng mùa thu làm chín tất cả lúa thóc hiện có vô lượng trên đại địa, làm lương thực cứu tế nuôi dưỡng vô lượng chúng sinh.

- Ngài Ca Diếp thưa: Bạch Thế Tôn, con kiến ngậm một hạt gạo không thể làm lợi ích an vui được.

- Đức Phật dạy: Này Ca Diếp, con kiến ngậm hạt gạo thì cũng như quả giải thoát của hàng Thanh văn vậy. Thì quả giải thoát thời ví như quả giải thoát của hàng Thanh văn cũng ví như thế. Trại lại, còn như mặt trăng mùa thu làm chín tất cả lúa thóc trên đại địa, phải biết về pháp Lục độ, Tứ Nhiếp pháp và công đức thiện căn cũng như vậy. Đồng thời, có khả năng làm thành thục vô lượng chúng sinh, và dắt họ vào sự an vui thế gian, xuất thế gian và an vui Niết bàn.

- Này Ca Diếp, ví như một người mang 100.000 hạt châu thủy tinh vào trong thành, so với một người đặt một hạt châu lưu ly trên thuyền, đến được cõi Diêm phù một cách an ổn, thì có thể cứu tế tất cả những người bần cùng khốn khổ.

- Này Ca Diếp, ý ông nghĩ sao, trăm ngàn người mang thủy tinh vào thành có thể so sánh với người mang một hạt châu lưu ly được không?

- Ngài Ca Diếp đáp: Thưa Đức Thế Tôn, không.

- Đức Phật dạy: Này Ca Diếp, người mang thủy tinh vào thành thì cũng như công đức vô vi của hàng Thanh văn. Còn người mang hạt châu đến cõi Diêm phù một cách an ổn, làm nhiều sự an lạc cho chúng sinh, thì Bồ tát cũng như thế (thì Bồ tát không dứt hạt giống Tam bảo, phát tâm Nhất thiết trí bảo và đồng thời làm nhiều sự an lạc cho chúng sinh cũng như thế).

Bấy giờ, ngài Ca Diếp bạch Đức Thế Tôn như sau: Thật là chưa từng có, vượt hẳn tất cả hàng Thanh văn và Duyên giác.

Khi ấy, các vị Bồ tát và hàng Thanh văn ở thế giới Bửu Chủ, nghe nói như vậy xong, liền bạch Phật rằng: Tất cả lời nói đều là lời nói hý luận, lời nói phân biệt, lời nói kiết sử đáng trách. Thưa Thế Tôn, ở cõi Phật Bửu Tướng không có lời nói như thế. Trái lại, mà thuần lời nói về Bồ tát không thối chuyển, không có sai biệt.

Thưa Thế Tôn, thật là khó có, Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng cúng Chánh biến tri có thể nhận được sự khổ này, để thành tựu được tất cả pháp không có thượng trung hạ sai khác, đều là pháp tánh nhất vị bình đẳng, an trú tam thừa.

Lược giảng:

Vấn đề sợ sệt. Tại sao? Vì khi sa vào tâm địa Thinh văn, Duyên giác thì không thể là chánh nhân chánh quả của quả vị Phật, do đó phải sợ và tránh xa. Cũng như sợ chặt đầu, vì chặt đứt đầu là phải chết. Cũng như quả vị Thinh văn, Duyên giác là thuốc độc của Bồ tát, Phật, cũng như thuốc của chúng sinh là thuốc độc của Chuyển luân Thánh vương. Do đó, cần thấy rõ và xa lìa, để đạt được mục đích cứu cánh. Như Kinh Pháp Hoa gọi là Hóa thành, không phải là Bảo sở. Vì vậy, phải bỏ Hóa thành, thì mới tiến về Bảo sở (thành Phật được, như phẩm Hóa thành dụ thứ 7 của Kinh Pháp Hoa đã trình bày). Tóm lại, mục đích đối tượng của người phát tâm Bồ đề là tu hành thành Phật, là mục đích cứu cánh, cho nên Bồ tát Phổ Hiền nói: “Tôi nay phát tâm Bồ đề, không vì mong cầu phúc báu trời, người, quả vị Thinh văn, Duyên giác, quyền thừa Bồ tát, mà chỉ y cứ vào quả vị Tối thượng thừa mà phát Bồ đề Tâm”.

Chánh văn:

Bấy giờ, các vị Bồ tát này liền lấy hoa trời, rải trên Đức Phật để cúng dường. Và bảo Văn Thù Sư Lợi như sau: Chúng ta có thể trở về thế giới Bửu Chủ được rồi.

Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Thật đúng lúc.

- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Nay thật là đúng lúc, các vị cứ về đi.

- các vị Bồ tát hỏi: Ngài không đi về sao?

- Văn Thù Sư Lợi đáp: Này Thiện nam tử! Tất cả thế giới đều bình đẳng, thế giới Phật đều bình đẳng, Pháp bình đẳng, và tất cả chúng sinh đều bình đẳng, nên ta trụ thế giới ấy làm gì?

- Các vị Bồ tát hỏi: Tại sao tất cả thế giới đều bình đẳng; thế giới Phật bình đẳng, Pháp bình đẳng và chúng sinh bình đẳng?

- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Này Thiện nam tử! Tất cả cõi như hư không nên bình đẳng, thế giới chư Phật không thể nghĩ bàn nên bình đẳng, tất cả pháp hư ngụy nên bình đẳng, và tất cả chúng sinh đều vô ngã nên bình đẳng. Vì những ý nghĩa trên, nên ta nói: Tất cả thế giới bình đẳng, thế giới Phật bình đẳng, Pháp bình đẳng và chúng sinh đều bình đẳng.

Bấy giờ, ngài Văn Thù Sư Lợi hiện thần thông, và dùng sức thần thông biến cõi Ta bà giống như cõi của Đức Phật Bửu Chủ không khác. Và đồng thời, biến Đức Thích Ca Mâu Ni giống như Đức Phật Bửu Tướng không khác.

Khi ấy, các vị Bồ tát đều nghĩ rằng: Chúng ta đã về đến thế giới Bửu Chủ rồi. Và đối với Đức Thích Ca Mâu Ni tưởng như là Đức Phật Bửu Tướng và thưa như sau: Ai đưa chúng tôi đến cõi này?

- Đức Phật đáp: Ai đem các ông đi?

- Các vị Bồ tát đáp: Ngài Văn Thù Sư Lợi đem chúng tôi đi.

- Đức Phật dạy: Thì ngài Văn Thù Sư Lợi đem các ông đến đây.

Bấy giờ, ngài Văn Thù Sư Lợi bảo các vị Bồ tát rằng: Này Thiện nam tử! Các ông hãy nhập định để quán sát coi ai đem các ông đến, và ai đem các ông đi?

Khi ấy, các vị Bồ tát nhập định và đều nghĩ như sau: Tại sao chúng ta không rời khỏi cõi Ta bà, mà lại đến được thế giới Bửu Chủ. Thưa Đức Thế Tôn, thật là chưa từng có.

Giờ đây, ngài Văn Thù Sư Lợi dùng sức thần thông Tam muội khiến cho chúng tôi cho là đã đến được thế giới Bửu Chủ, nhưng giờ đây vẫn còn đang ở cõi Ta bà này. Thưa Đức Thế Tôn! Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được năng lực thần thông như ngài Văn Thù Sư Lợi vậy.

Bấy giờ, Đức Phật bảo các vị Bồ tát ở thế giới Bửu Chủ như sau: Này Thiện nam tử, như tất cả đồ bằng vàng, bằng bạc, bằng pha lê, bằng lưu ly, bằng thủy tinh, bằng sắc, bằng kim cang, bằng chiên đàn, bằng ngọc báu, bằng ngói và bằng gỗ v.v…, tuy là có các thứ đồ khác nhau, nhưng hư không ở trong các thứ đồ ấy, thì không khác. Do đó, vì tất cả pháp tánh nhất như, như thật tế, nhưng vì các chúng sinh do tùy theo chỗ thọ sanh của học mà có các thứ bình đẳng khác nhau, và họ biến thành trăm ngàn ức thứ hình sắc khác nhau.

Hơn nữa, vì địa ngục sắc, súc sanh sắc, ngạ quỷ sắc, trời người sắc, a tu la sắc, Bồ tát sắc và Phật sắc bình đẳng, nên sắc cũng bình đẳng. Vì như như nên sắc cũng như như. Vì hư không bình đẳng nên sắc cũng bình đẳng.

Này Thiện nam tử! Vì lý do ấy, nên Văn Thù Sư Lợi nói: Tất cả thế giới bình đẳng, thế giới chư Phật bình đẳng, pháp bình đẳng và tất cả chúng sinh đều bình đẳng. Và Ta nay không trụ ở thế giới ấy như trên.

Lược giảng:

Đại chúng tháp tùng Bồ tát Văn Thù qua thế giới Ta bà, nghe pháp từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Tôn giả Ca Diếp trình bày, cũng như góp phần giúp cho chúng Bồ tát ở Ta bà được nghe pháp từ Văn Thù Sư Lợi, lợi ích vô cùng lớn lao, trong đó nhân vật chính thưa hỏi là Thiên tử Tịch Điều Phục Âm. Sau khi công việc làm Phật sự xong, Đại chúng ở thế giới Bửu Chủ muốn trở về trụ xứ của mình, nhưng không thực hiện được. Vì khi đi thì do Đức Văn Thù với diệu dụng phát ra từ Căn bản trí chớ không phải là phần của mình, mà phần chủ động chính là ở Bồ tát Văn Thù.

Trên cơ sở đó, Bồ tát Văn Thù dùng thần lực biến thế giới Ta bà nầy thành thế giới Bửu Chủ, và Đức Phật Thích Ca trở thành Đức Phật Bảo Tướng, và Đại chúng lầm tưởng là đã về đến trú xứ cũ, kỳ thực là chưa. Nhưng qua đó cho thấy năng lực của Căn bản trí, của Bản giác phát khởi từ Nhất chơn Pháp giới của Văn Thù Sư Lợi là rất lớn và đặc biệt chỉ ở ai thực chứng thì mới có thể hiện được. Như trong Kinh Pháp Hoa, Đức Phật đã biến thế giới Ta bà nầy thành Tịnh độ để dung chứa Phân thân của Phật Thích Ca ở 10 phương tập hợp lại. Và Kinh Duy Ma Cật, ngài Duy Ma Cật đã thể hiện một cách mầu nhiệm để nói lên sự thống nhất về năng lực bất tư nghì của Phật, Bồ tát như nhau. Như Cổ đức nói: Thu lai tại nhất vi trần. Tán tác phổ chư giới (Thu lại thì nhỏ bằng hạt bụi. Phân tán ra thì khắp Pháp giới). Hoặc như Khánh Hỷ đại sư nói: “Càn khôn tận thị mao đầu thượng. Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung” (Trời đất thu lại còn bằng đầu sợi lông. Mặt trời, mặt trăng chỉ còn trong hạt cải mòng).

Sau khi Bồ tát Văn Thù thu hồi thần lực, thì cảnh cũ vẫn hiện ra bình thường, làm cho Đại chúng vô cùng tán thán và trầm tư về ý nghĩa bất tư nghì của Pháp. Mà chỉ có ai chứng ngộ, đạt tới trình độ đó thì mới thất và hiểu dược giá trị Chân lý mầu nhiệm tại Tâm của chúng sinh cũng như tất cả Đại chúng tham dự Pháp hội Thanh Tịnh Tỳ Ni, thông đạt lý tánh bình đẳng nhất vị, lớn nhưng không gì lớn, nhỏ thì không gì nhỏ, gần xa, vô ngại, vì tất cả đều từ Pháp giới pháp sinh, và cuối cùng đều trở về Pháp giới: Như Cổ đức nói: “Từ Chân như Ngài đến ba Miền. Nay duyên mãn trở về Pháp giới”, đây chính là ý nghĩa lá rụng về cội vậy.

III. Kết thúc Pháp thoại:

Khi Đức Thế Tôn dùng pháp như ý, chỉ dạy làm lợi ích vui mừng cho các vị Bồ tát xong, thời các vị đều đảnh lễ chơn Đức Phật và đi quanh ba vòng, rồi ra khỏi đại chúng không xa, đồng thời đều ẩn mặt ở thế giới Ta bà này để trở về thế giới Bửu Chủ như cũ.

Khi đó, Đức Phật bảo ngài A Nan rằng: Ông hãy thọ trì, đọc tụng và ở trong đại chúng vì mọi người mà rộng nói kinh nầy.

Ngài A Nan bạch Phật: Thưa Thế Tôn, tôi đã thọ trì rồi và kinh này tên là gì? Đồng thời phải thọ trì như thế nào?

- Đức Phật bảo ngài A Nan như sau: Kinh này tên là Tịch Điều Phục Âm Thiên Tử Sở vấn, hay cũng gọi là Thanh Tịnh Tỳ ni hoặc là Nhất thiết Phật pháp.

Khi Đức Phật nói kinh này xong, đại đức A Nan, Thiên tử Tịch Điều Phục Âm và Văn Thù Sư Lợi, các vị Bồ tát, ngài đại Ca Diếp, tất cả chúng Thanh văn v.v… nghe Đức Phật nói như thế, đều rất vui mừng, cúi đầu đảnh lễ rồi lui ra.

- Lược giảng:

Sau khi Đức Phật trình bày Pháp Thanh Tịnh Tỳ Ni, cũng như một số vấn đề khác, liên quan đến Phật pháp được Đại chúng tiếp nhận vô cùng hoan hỷ, lợi lạc vô biên, nhất là chúng Bồ tát và Thinh văn từ thế giới Bửu Chủ của Đức Phật Bảo Tướng đến cùng với Bồ tát Văn Thù tham dự Pháp hội. Như Cổ đức nói: “Nhất cú Kinh văn tuy thiểu, ngộ chi tức chứng Bồ đề” (Một câu Kinh tuy là ít, nhưng nếu như tỏ ngộ thì chứng được Bồ đề thành Phật).

Khi xong, toàn thể Đại chúng đảnh lễ tạ ơn Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở thế giới Ta bà, rồi ẩn mặt để về thế giới Bửu Chủ một cách tự tại vô ngại, vì các Ngài đã được thần thông du hý Tam muội, dạo chơi, qua lại trong Pháp giới vô biên. Cũng như Cổ đức nói: “Hồng trần nhẹ gánh chơi ba cõi. Mỗi niệm tùy duyên độ chúng sinh”.

Phần còn lại là Đại chúng ở thế giới Ta bà, Đức Phật khuyên ngài A Nan hãy thọ trì Kinh nầy. Vì đấy là Pháp bảo đưa đến giác ngộ, thành Phật. Vì ngài A Nan còn đương vị là A Na Hàm (Thánh quả Thinh văn).

Đồng thời, cũng đề cập đến tên Kinh, có ba tên: 1. Thiên tử Tịch Điều Phục Âm thưa hỏi; 2. Thanh Tịnh Tỳ Ni; 3. Tất cả Phật pháp.

Với tinh thần trân trọng giáo pháp, giới pháp nên Đại chúng đã hoan hỷ, tin tưởng, thọ trì để tu hành thành Phật. Quả như: “Mỗi bước chân đi là mỗi bước tiến gần đến Đạo quả Vô thượng Bồ đề” (Kinh Lăng Nghiêm Chánh Mạch).

 

Dịch xong mùa An cư năm Kỷ Mùi - 1979

Hiệu đính  mùa An cư năm Tân Mão - 2011

Dịch giả: Tỳ kheo Thích Thiện Nhơn

Phần chú thích

1. Núi Kỳ Xà Quật:

Còn gọi là Núi Linh Thứu, chữ Pali là Gridhrakutà. Vì hình dáng mõm núi giống hình chim Kênh Kênh. Núi Kỳ Xà Quật, thuộc khu vực thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Đà, núi Kỳ Xà Quật hay núi Linh Thứu là nơi Đức Thế Tôn trú ngụ lâu nhất trong cuộc đời hoằng pháp độ sanh của Phật và các bộ Kinh Đại thừa đều được Đức Phật thuyết giảng tại đây, như kinh Bát Nhã, kinh Đại Bảo Tích, Phương Đẳng, kinh Pháp Hoa v.v…

2. Thành Vương Xá:

Chữ Pali là Rajargriha, là ngôi thành cổ nhất của Ấn Độ, thủ phủ nước Ma Kiệt Đà. Thành nầy đầu tiên do vua Vasu kiến lập, có tên là Vasumati, đến thời Đức Phật gọi là Vương Xá, thành có đến 32 cửa chính và 64 cửa phụ.

3. Nước Ma Kiệt Đà:

Chữ Pali là Magadha, là một trong 16 đại quốc của Ấn Độ trong thời đại Đức Phật, do vua Tần Bà Ta La (Bimbisara) trị vì. Về sau do vua A Xà Thế kế thế trị vì.

4. Ngũ Tịnh Cư Thiên:

Còn gọi là Ngũ Bất Hoàn Thiện, là cảnh giới của các vị chứng quả A na hàm lưu trú, để tiếp tục tu hành chứng quả, nhập Niết bàn tại đây. Ngũ Tịnh Cư Thiên là 5 cõi trời cuối cùng của Sắc giới. Đó là:

- Vô phiền thiên: Không còn phiền não chi phối thân tâm.

- Vô nhiệt thiên: Không còn phiền não làm nóng bức thân tâm.

- Thiện kiến thiên: Có khả năng thấy rõ các Pháp.

- Thiện hiện thiên: Có khả năng biến hiện thần thông và các pháp.

- Sắc cứu cánh thiên còn gọi là Hữu đảnh thiên, Cõi trời cuối cùng và cao nhất của Sắc giới. Đại Tự Tại Thiên Vương trị vì cõi này và các vị Bồ tát cũng thường thị hiện thuyết pháp cho chư Thiên như Kinh Phạm Võng đã đề cập.

5. Văn Thù Sư Lợi:

Còn gọi là Mạn Thù Thất Lợi, chữ Pali là Manjusi. Có nghĩa là Diệu đức, Cát tường. Theo Kinh tạng Bắc truyền, Văn Thù Sư Lợi là tiêu biểu cho Căn bản Trí (Trí mẫu), mẹ sinh ra các loại trí tuệ. Nói khác đi, là tất cả công hạnh và Phật quả đều từ Căn bản Trí phát khởi diệu dụng. Đối lại Văn Thù Sư Lợi là Bồ tát Phổ Hiền, tiêu biểu cho hạnh nguyện tu hành thành Phật. Nói khác đi là Tri (Văn Thù) Hành (Phổ Hiền) hợp nhất, hạnh giải tương ưng, cứu cánh thành Phật.

6. Thinh Văn:

Chỉ cho các vị Thánh, đệ tử Phật tu hành nghe pháp Tứ đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo, quán chiếu tư duy thành tựu đạo quả, gọi là Thinh văn Bồ đề.

7. Duyên Giác:

Chia làm hai hạng. Hạng người ra đời gặp Phật, nghe pháp 12 Nhân duyên, quán chiếu chứng quả, gọi là Duyên giác Bồ đề. Hạng người ra đời không gặp Phật, chỉ tự quán chiếu lý vô thường, duyên sinh vô ngã của các pháp mà ngộ đạo, gọi là Bích Chi Phật hay là Độc giác, Bồ đề nghĩa là tự mình tư duy quán sát tu tập, tự tỏ ngộ Chân lý không do ai khai thị, chỉ bày.

8. Phát Bồ đề Tâm:

Theo tinh thần Kinh Hoa Nghiêm, thì Bồ tát phát tâm Bồ đề, duyên theo 10 cảnh giới, là 10 pháp giới mà phát tâm tu cứu độ chúng sanh, thành tựu quả vị Phật. Do duyên theo cảnh giới Phật, cảnh giới Bồ tát, cảnh giới Thinh văn, cảnh giới Duyên giác, cảnh giới Chư Thiên, cảnh giới A Tu la, cảnh giới loài người, cảnh giới ngạ quỷ, cảnh giới súc sanh, cảnh giới địa ngục mà phát tâm Bồ đề, tu hành, cứu độ chúng sanh, giác ngộ thành Phật. Theo Kinh Đại Bát Nhã thì gồm có: Tự tánh phát, nhân duyên phát, thệ nguyện phát Bồ đề tâm, đoạn chứng phát Bồ đề tâm.

9. Tăng thượng mạn:

Theo Luận Câu Xá, là một trong 7 loại Ngã mạn, thuộc về căn bản tùy miên (Căn bản phiền não của chúng sanh), đó là:

- Mạn: Có tâm cao mạn so sánh, đối với người thua mình, tự mình cho mình hơn, đối với người hơn mình, lại cho mình bằng.

- Mạn quá mạn: Có tâm cao mạn, đối với người hơn mình, lại cho mình hơn.

- Ngã mạn: Có tâm chấp ngã, ngã sở, rồi sinh ra cao mạn, dương dương tự đắc, dù không công nhiên so sánh hơn thua với người.

- Tăng thượng mạn: Chưa học, chưa tu, chưa chứng, lại tự cho mình đã học, đã tu, đã chứng.

- Tà mạn: Có tâm cao mạn. Tự thị về những kiến giải, sự tu tập sai lầm, mà lại khinh khi, lướt người khác.

- Ty liệt mạn: Có tâm cao mạn, mình thua người nhiều, lại tự cho là thua ít, không chịu phục tùng người hơn mình, hoặc tự mãn với chút ít học thức, đạo đức mà không cầu tiến.

10. Đệ nhất nghĩa đế:

Còn gọi là Thắng nghĩa đế, chỉ cho Chân lý tuyệt đối, ly khai ngôn ngữ, ly khai tâm phân biệt, ly khai danh tướng Chân đế, Tục đế không hai, bình đẳng nhất như v.v… Như Kinh Giải Thâm Mật nói: “Đối với Thắng nghĩa đế, không phải một và khác. Người nào cho là một, là khác, là hiểu biết không đúng”. Đôi khi còn gọi là Chân đế, là lẽ thật, tự tánh các pháp là như thế, nên gọi Pháp nhĩ như thị.

11. Thế tục đế:

Đối lại với Chân đế, Thắng nghĩa đế, Đệ nhất nghĩa đế, Thế tục đế, là lẽ thật của các pháp thế gian, các pháp hữu vi, sinh diệt, vô thường như tứ đại, ngũ uẩn, thế gian, thế giới, vạn hữu vũ trụ… là vô thường, sinh diệt, đổi thay, chúng chỉ có giá trị tương đối ở phạm vị nhận thức thông thường của chúng sanh, của thế gian, không thuộc lãnh vực chân lý tuyệt đối, nhận thức của các bậc Thánh. Tóm lại, như Luận Thành Duy Thức nói có 4 loại Thắng nghĩa: Thế gian thắng nghĩa là 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới v.v… Đạo lý thắng nghĩa là 4 đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo đế. Chứng đắc thắng nghĩa là hai thứ Chân như xuất hiện là Ngã không, Pháp không Chân như. Thắng nghĩa thắng nghĩa đế, là pháp giới Chân như, Nhất tâm Chân như, là Tâm pháp giới.

12. Pháp Hữu vi, Vô vi:

Theo Luận Duy thức học của Bồ tát Thế Thân, thì các pháp trong thế gian, tức vạn hữu vũ trụ gồm cả thế gian và xuất thế gian, có 100 pháp.

Về pháp Hữu vi có 94 pháp là:

- Sắc pháp có 11: Nhãn căn, nhĩ, tỷ, thiệt thân, sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.

- Tâm pháp có 8: Nhãn thức, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức, Mạt na thức, A lại da thức.

- Tâm sở pháp có 51:

+ Năm pháp Biến hành: Xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư.

+ Năm pháp biệt cảnh: Dục, thắng giải, niệm, định, huệ.

+ Thiện pháp có 11: Tín, tinh tấn, tàm quý, vô tham, vô sân, vô si, khinh an, bất phóng dật, hành xả, bất hại.

+  Bốn pháp Bất định: Hối, miên, tầm, tứ.

Về phiền não có:

- Phiền não Căn bản: Tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến.

- Phiền não bậc trung: Vô tàm, vô quý.

- Phiền não bậc tiểu - Chi mạt có 20: Phẩn, hận, phú, não, tật, xan, cuống, xiểm, hại, kiêu, trạo cử, hôn trầm, thất niệm, phóng dật, bất chánh tri.

- Pháp bất tương ưng có 24: Đắc, mạng căn, chúng đồng phận, dị sanh tánh, vô tưởng định, diệt tận định, vô tướng báo, danh, cú, văn thân, sinh, trụ, lão, vô thường, định vị thế tốc, thứ đệ, thời phương, số, hòa hợp tánh, bất hòa hợp.

- Pháp vô vi có 6: Hư không vô vi, trạch diệt vô vi, phi trạch diệt vô vi, bất đồng diệt vô vi, thọ tưởng diệt vô vi, chân như vô vi.

13. Hết các lậu hoặc:

Lậu hoặc là tên khác của phiền não, làm cho chúng sinh mê lầm tạo nghiệp bị sinh tử luân hồi trong ba cõi dục Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới và 6 cõi dục Trời, người, a tu la, ngạ quỹ, súc sinh, địa ngục. Khi hành giả đoạn hết các lậu hoặc thì được chứng quả Bồ đề (Trí) Niết bàn (Chân như tịch tịnh).

Lậu hoặc có 3 – Dục lậu: Chỉ cho các phiền não sinh khởi thuộc phạm vi Dục giới như tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến v.v…; Hữu lậu: Chỉ các phiền não sinh khởi ở 2 cõi Sắc và Vô sắc, như tham, si trừ sân hận; Vô minh lậu: Chỉ phiền não khởi lên ở phạm vi 3 cõi Dục, Sắc, Vô sắc giới, trừ sân, vô minh, vì bản thân nó là vô minh. Hai cõi trên vì sống trong định nên trừ sân, còn lại là tất cả phiền não trong 3 cõi.

14. Vô sanh Pháp nhẫn:

Nhẫn có nghĩa Trí tuệ thấy các pháp là không, là không sanh diệt, thường trụ, vô tướng, vì thế Tâm an trí bất động vào thể tánh các pháp vô sanh không phân biệt, như như bất động, gọi là Chứng vô sanh pháp nhẫn. Đây là một trạng thái, một tâm lý cao nhất trong quá trình tu chứng của hành giả Bồ tát hay Bất thối Bồ tát cũng như nhau.

15. Ngũ nghịch và lý ngũ nghịch

Theo lời Phật day, qua các Kinh Bắc truyền (Đại thừa), Ngũ nghịch là 5 đại tội, trái chân lý, tự tánh thiện, đạo đức cao nhất của chúng sanh. Là tội giết cha, giết mẹ, giết Hòa thượng A xà lê, phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật ra máu. Khi tạo 5 tội ngũ nghịch, chúng sinh bị đọa địa ngục vô gián, thời gian thoát khỏi địa ngục rất dài, không có thời gian để tính kể. Khi đăng đàn thọ Đại giới, các Giới sư vấn nạn các giới tử, nếu phạm một trong 5 điều tội nghịch thì không được thụ Đại giới. Cho nên, 5 tội nghịch là chướng ngăn Thánh đạo.

Tuy nhiên, đứng về mặt lý, thì Kinh Lăng Già nói: “Nếu chúng sanh, Bồ tát thực hành 5 tội nghịch, thì được giải thoát thành Phật”. Đó là giết cha vô minh, giết mẹ tham ái, giết A la hán (Vô sanh, sát tặc, ứng cúng), phá ngũ ấm thân ngũ uẩn, là phá hòa hợp Tăng, đoạn trừ giác vọng tưởng là làm thân Phật ra máu. Trên đây là lý ngũ nghịch. Nên thành tựu 5 sự tu tập nầy thì thành Phật. Đồng quan điểm, Kinh Pháp cú hệ Pali cũng đề cập, tuy có một vài từ tương đối nhẹ như: “Giết cả cha lẫn mẹ. Sát hại vua Đế lỵ. Cùng cả bọn tùy tùng. Phạm chí được an vui”. (PC 294)

16. Pháp học, Pháp Vô học:

Theo Kinh Trung A Hàm, thì Pháp học là pháp tu tập của hàng Tam quả, là Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm gồm có Bát Chánh đạo: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mệnh, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Trong đó, bao gồm 3 môn Vô lậu học: Giới (Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mệnh), Định (Chánh niệm, Chánh định), Huệ (Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh tinh tấn). Còn pháp Vô học là pháp tu chứng quả A la hán, là Bát Chánh đạo cộng thêm 2 pháp quả là Chánh tri, Chánh giải thoát, là 10 pháp Vô học. Cụ thể như sau: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mệnh, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định, Chánh trí, Chánh giải thoát.

17. Quán Tứ đế:

Có 02 cách quán: Biệt quán là quán riêng từng đế một, như Khổ đế thì có Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã. Tập đế thì có Tập, nhân, sanh, duyên. Diệt đế thì có Tịch diệt, diệu, ly. Đạo đế thì có Đạo, như, hành xuất. Tổng cộng là 14 hành tướng của Tứ đế. Còn Tổng quán là quán tổng quát, là trong một niệm hiện tiền đầy đủ 4 đế, 16 hành tướng. Còn cách lý giải thứ hai là Hiện quán, chính là quán Tứ đế trong phạm vị Dục giới. Còn loại quán, do hai cảnh giới Sắc, Vô sắc thuộc cõi trên, nên không quán trực tiếp, mà quán loại suy, có nghĩa là Dục giới như thế nào thì quán suy ra, hai cõi trên cũng thế. Từ đó, có ra 16 Tâm quán quán Tứ đế, chứng quả A la hán.

Dục giới:               Khổ pháp nhẫn                Khổ pháp trí

Tập pháp nhẫn                Tập pháp trí

Diệt pháp nhẫn                Diệt pháp trí

Đạo pháp nhẫn                Đạo pháp trí

Sắc giới          Khổ loại nhẫn                  Khổ loại trí

Tập loại nhẫn                  Tập loại trí

Vô Sắc giới    Diệt loại nhẫn                  Diệt loại trí

Đạo loại nhẫn                  Đạo loại trí

18. Bồ tát, còn gọi         là Bồ tát Bồ đề, chữ Pali là Boddhisatta, chữ Phạn là Bodhisattva. Trung quốc dịch âm là Bồ đề tát đỏa = Bồ đề là Giác. Tát đỏa là Hữu tình chúng sinh. Từ đó, Bồ tát có nghĩa Giác Hữu tình, là Chúng sinh có sự giác ngộ chính mình (tự giác), Hữu tình giác, chính mình giác ngộ, cũng làm cho chúng sinh được giác ngộ như mình (giác tha). Tự giác, giác tha là Nhân, thành Phật là Quả, nên Phật là Giác hạnh viên mãn, là bậc đã đầy đủ hai thứ giác ngộ (tự giác, giác tha).

19. Tư lương vị: Là thức ăn, lương thực, hành trang dành cho người chuẩn bị đi xa. Đối với người tu hành là hai hành trang, lương thực đi đến Phật quả, là Phúc đúc tư lương và Trí tuệ tư lương. Thế nên Cổ đức nói: Phúc trí đầy đủ thì mới thành Phật (Phúc trí lưỡng toàn tương tác Phật). Về quả vị tu chứng, theo Luận Thành Duy Thức, là một (đầu tiên) trong 5 vị của Duy Thức Tông. Đó là, Tư lương vị, Gia hành vị, Thông đạt vị, Tu tập vị, Cứu cánh vị. Riêng Tư lương vị gồm có Tam hiền là Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng. Thập trụ có: Phát tâm trụ, Trị địa trụ, Tu hành trụ, Sinh quí trụ, Phương tiện cụ túc trụ, Chính tâm trụ, Bất đồng chơn trụ, Pháp vương tử trụ. Quán đảnh Thập hạnh có 10 hạnh: Hoan hỷ hạnh, Nhiêu hạnh, Vô sân hận hạnh, Vô tận hạnh, Ly si hạnh, Thiện hiện hạnh, Vô trước hạnh, Tôn trọng hạnh, Thiện pháp hạnh, Chân thật hạnh. Thập hồi hướng có 10 bậc: Cứu hộ chúng sanh ly chúng sanh tướng hồi hướng, Bất hoại hồi hướng, Đẳng nhất thiết vật hồi hướng, Vô tận công đức tạng hồi hướng. Tùy thuận bình đẳng thiện căn hồi hướng, Tùy thuận đẳng quán nhất thiết hồi hướng, Chân như tướng hồi hướng, Vô phược giải hồi hướng, Pháp giới vô lượng hồi hướng.

20. Sáu pháp Ba la mật (Paramitra): Là Pháp hạnh của Bồ tát, do tu tập 6 pháp Ba la mật nên thành tựu 2 pháp tư lương, còn gọi là 2 pháp trang nghiêm Nhân Quả Phật, là Phúc đức, Trí tuệ. Trong đó, Phúc đức gồm Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Thiền định; Trí tuệ gồm Tinh tấn, Trí tuệ. Nên Cổ đức có câu: “Muôn hạnh trông về Bi Trí Dũng. Những mong sang tỏ bậc siêu trần”. Nói cách khác, 6 Pháp Ba la mật bao hàm 03 môn Vô lậu học – Giới (Bi): Bố thí, Trì giới; Định, gồm Nhẫn nhục, Thiền định; Huệ, gồm Tinh tấn, Trí huệ (Trí dũng). Trong đó, Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Thiền định thuộc về Bi; Trí huệ là Trí; Tinh tấn là Dũng.

21. Bốn Pháp nhiếp hóa: Bồ tát dùng 4 pháp nầy để làm Phật sự, nhiếp phục, hóa độ chúng sanh, hướng dẫn chúng sanh về với Phật đạo, tiến tu giải thoát thành Phật. Bó thí (Tài, pháp, vô úy thí, tùy hỷ thí), Ái ngữ thuộc về Từ bi, xa lìa 4 khẩu nghiệp. Lợi hành cùng làm lợi ích chúng sanh. Đồng sự chung nhau thực hành thiện pháp, hướng thiện và đạt được pháp thiện. Cả hai thành tựu Phật quả.

22. Năm phần Pháp thân: Năm phần tích lũy pháp công đức, là Giới pháp thân: Tích lũy các pháp thiện, do xa lìa điều ác. Định pháp thân: Tích lũy sự định tính, bình ổn tâm tánh. Huệ pháp thân: Tích lũy sự sáng suốt trong nội tâm. Giải thoát pháp thân: Tích lũy sự giải thoát tâm không còn phiền não v.v… Giải thoát tri kiến pháp thân: Tích lũy sự giải thoát khỏi sự chấp ngã, chấp pháp không chấp trước, được Tâm vô trụ. Như Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Tự tâm thanh tịnh là Giới. Tự tâm vắng lặng là Định. Tự tâm thấy rõ các pháp là Huệ. Tự tâm không còn phiền não là Giải thoát. Tự tâm không còn chấp thủ là Giải thoát tri kiến”. Ở một trường hợp khác, Kinh Hoa Nghiêm chủ trương 5 phần Pháp thân là Pháp tánh pháp thân. Biến hóa pháp thân. Công đức pháp thân. Hư không pháp thân (Pháp giới, Thật tướng Pháp thân).

23. Tập khí: Thói quen, do năng lực huân tập lâu đời, lâu kiếp mà phát sinh tương ứng với đối tượng khi tiếp cận. Theo Luận Thành Duy Thức có 3 thứ Tập khí.

a. Danh ngôn tập khí: Những âm thanh, chữ nghĩa, sai biệt, có khả năng diễn tả ý nghĩa sự việc, gọi là Biểu nghĩa danh ngôn. Còn năng lực giúp cho hiểu rõ từng đối tượng sai biệt do Tâm, Tâm sở đã thực hiện rồi huân tập thành năng lực, và phát hiện khi tiếp cận đối tượng tương xứng, gọi là Hiển cảnh danh ngôn.

b. Ngã chấp tập khí: Do chủng tử chấp ngã và chấp pháp đã huân tập nhiều đời, nên luôn luôn thể hiện hành vì chấp Ngã và chấp Pháp, gồm có Câu sanh và Phân biệt. Câu sanh chỉ có ở thức thứ 6 và thứ 7. Phân biệt chấp Ngã chỉ có ở thức thứ 6 và dễ đoạn trừ khi vào bậc Kiến đạo là không còn. Còn Câu sanh phải đến bậc tu đạo mới đoạn trừ tận gốc rễ.

c. Hữu chi tập khí: Gồm Chi Hành và Hữu trong 12 nhân duyên. Đó là chủng tử nghiệp Dị thục chiêu cảm sanh tử trong ba cõi, bao hàm hai loại thiện và bất thiện tập khí.

24. Kiết sử: Những phiền não ràng buộc sai sử chúng sanh trong ba cõi sáu đường, gồm có hai là Độn sử (sâu dày): Tham, sân, si, mạn, nghi; Lợi sử: Nhạy bén, cạn cợt, dễ trừ, là thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cẩm thủ. Từ 10 Kiết sử có ra 88 Kiến hoặc và 91 Tư hoặc trong ba cõi, khi tu chứng kiến đạo thì đoạn trừ 88 phần Kiến hoặc thành tựu Kiến đạo vị. Khi đoạn trừ hết 91 phẩm Tư hoặc thì chứng Tu đạo.

Theo Luận Câu Xá của Hữu bộ thì chia làm hai, là Hạ phần Kiết sử gồm tham, sân, thân kiến, giới cấm thủ và nghi; Thượng phần Kiết sử là tham sắc, tham vô sắc, trạo cử, mạn và vô minh. Tóm lại, Hạ phần Kiết sử là những phiền não hoạt động ở phạm vi Dục giới, còn Thượng phần Kiết sử là những phiền não hoạt động ở cõi Sắc và Vô sắc.

25. Bát nhân địa: Là một trong các quả vị tu chứng của Thông giáo. Đó là Càn Huệ địa, Tánh địa, Bát nhân địa, Kiến địa, Bạc nhược địa, Lly dục địa, Dĩ biện địa (vô học địa), Bích chi Phật địa, Bồ tát địa, Phật địa.

26. Bát tà: Cách nói ngược lại với Bát Chánh đạo là tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mệnh, tà tinh tấn, tà niệm và tà định.

27. Tu Đà Hoàn: Là quả vị thứ nhất trong 4 quả Thinh văn, nghĩa là Dự lưu, được dự vào dòng Thánh. Qua kết quả tu tập từ Tứ Gia hành (Noãn, đãnh, nhẫn, thế đệ nhất vị) viên mãn tâm thế đệ nhất, thành tựu tâm Vô lậu huệ, quán trí liên tục, hiện tiền, thấy rõ 8 lý Tứ đế Dục giới: Khổ pháp Trí nhẫn – Khổ pháp trí, Tập pháp Trí nhẫn – Tập pháp trí, Diệt pháp Trí nhẫn – Diệt pháp trí, Đạo pháp Trí nhẫn – Đạo pháp trí, Khổ loại Trí nhẫn – Khổ loại trí, Tập loại Trí nhẫn – Tập loại trí, Diệt loại Trí nhẫn – Diệt loại trí, Đạo loại Trí nhẫn. Đạo loại trí đoạn trừ 88 Kiến hoặc trong ba cõi Dục, Sắc giới, Vô sắc giới thành tựu 16 tâm chứng quả, còn gọi là Kiến đạo vị. Trong quá trình tu tập, chứng 15 tâm gọi là Tu đà hoàn hướng; chứng tâm thứ 16 (đầy đủ 16 tâm), gọi là Tu Đà hoàn quả.

28. Tư Đà Hàm: Là quả vị thứ hai trong Tứ quả Thinh văn. Tư Đà Hàm còn gọi là Thất lai, 7 lần sinh tử trong Dục giới. Vì Tư Đà Hàm chỉ đoạn trừ Kiến hoặc trong ba cõi, chớ Tư hoặc chưa đoạn trừ. Đến bậc Tư Đà Hàm thuộc Tu đạo vị, bắt đầu đoạn trừ Tư hoặc trong ba cõi. Tư hoặc có 91 phẩm. Trong Dục giới có 9 phẩm, Sắc và Vô sắc có 9 phẩm. Trong 9 phẩm Dục giới, có 7 lần làm sinh tử luân hồi, là Thượng phẩm hai lần, Thượng trung, Thượng hạ, Trung thượng 3 lần, Trung trung, Trung hạ một lần, Hạ thượng, Hạ trung, Hạ hạ một lần, thành 7 lần. Do đó, Tư Đà Hàm gọi là vị Thánh phải sinh tử trong cõi dục 7 lần mới thoát khỏi Dục giới chi phối. Đang đoạn trừ phẩm 6 thì gọi là Tư Đà Hàm hướng, đoạn hết phẩm 7 thì gọi là Tư Đà Hàm quả.

29. A Na Hàm: Là vị thứ ba trong Tứ quả Thinh văn. A Na Hàm có nghĩa là Bất lai, là không còn sinh lại trong cõi Dục, chỉ hiện hữu ở cõi Sắc, như Ngũ bất hoàn thiên chẳng hạn. Lý do là các Tư hoặc trong Dục giới đã đoạn trừ hoàn toàn, chỉ còn Tư hoặc trong cõi Sắc và Vô sắc. Do đó, đoạn trừ 3 phẩm sau của Tư hoặc Dục giới là 6, 7 thì gọi là A Na Hàm hướng, đoạn trừ hoàn toàn phẩm 9 thì gọi là A Na Hàm quả. Về quả vị A Na Hàm có thể chia làm nhiều bậc như: Trung ban, Sinh ban, Hữu hành ban, Vô hành ban, Thượng ban, Hành vô hành sắc ban, Hiện ban. Còn nếu là 9 thì lấy Trung ban chia làm 3: Tốc ban, phi tốc ban, kinh cửu ban. Sinh ban chia làm 3: Toàn siêu, bán siêu, biến siêu…

30. A La Hán: A La Hán có nghĩa là Vô sanh, sát tặc, ứng cúng, là vị thứ thuộc Vô Học vị trong 4 quả Thinh văn. Về mặt tu chứng là đoạn trừ 9 phẩm Tư hoặc của 2 cõi trên thì chứng quả A La Hán. Tuy nhiên, nói cho dễ hiểu là trừ hết phẩm 8 là phẩm 90 Tư hoặc, gọi là A La Hán hướng, đoạn hết phẩm 9 của 2 cõi trên Sắc – Vô sắc là phẩm 91 thì chứng quả A La Hán, thành tựu trí huệ vô lậu, 10 trí, 6 thần thông, 8 pháp giải thoát, chứng 5 phần pháp thân, phát ra tuyên ngôn: “Sinh tử đã hết. Phạm hạnh đã tròn. Việc làm đã xong. Không còn thọ thân sau”. Và A La Hán có thể chia thành 06 vị: Thối pháp A La Hán, Tư pháp A La Hán, Hộ pháp A La Hán, An trú pháp A La Hán, Kham đạt pháp A la Hán. Bất động pháp A La Hán.

31. Thập lực: Mười năng lực trí tuệ của Phật, thuộc về Pháp bất cộng, nghĩa là không cùng chung với Thinh văn. Nói thế có nghĩa là, chỉ có Phật mới có 10 lực, còn A La Hán thì không. Tuy nhiên, theo Hữu bộ thì A La Hán cũng có 10 trí lực nhưng là của A La Hán, là Thế tục trí, pháp trí, loại trí, khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, tha tâm trí, tận trí, vô sinh trí.

Mười lực là:

- Xứ phi xứ trí lực: Năng lực trí tuệ biết rõ điều hợp đạo lý, điều không hợp lý.

- Tri tam thế nghiệp báo trí lực: Năng lực trí tuệ biết rõ nghiệp báo, nhân quả ba đời của chúng sanh.

- Tri chủng giới trí lực: Năng lực trí tuệ biết rõ các loại thế giới sai biệt của chúng sanh.

- Tri chủng chủng tam muội giải thoát trí lực: Năng lực biết rõ các loại Thiền định, giải thoát mà chúng sanh chứng được.

- Tri chư căn thắng liệt trí lực: Năng lực trí tuệ biết rõ căn cơ trình độ cao thấp, lợi căn, độn căn (nhạy bén, chậm lụt) của chúng sanh.

- Tri chủng chủng dục trí lực: Năng lực trí tuệ biết rõ những sự vui mừng, mong muốn của chúng sanh.

- Tri nhứt thiết chí sở đạo trí lực: Năng lực trí tuệ biết rõ hành nghiệp dẫn đến quả báo và cảnh giới quả báo để thọ sanh v.v…

- Tri túc mệnh trí lực: Năng lực trí tuệ biết được đời trước của mình và chúng sanh.

- Thiên nhãn trí lực: Năng lực trí tuệ của cặp mắt Phật thấy rõ 3.000 thế giới và pháp giới, cũng như sự thác sanh ở đây, sanh về cõi khác, hay từ cõi khác sinh về thế giới nầy v.v…     

- Vĩnh đoạn tạp nhiễm: Rõ mình và chúng sanh đã đoạn trừ hoàn toàn không còn phiền não, lậu hoặc, thanh tịnh hoàn toàn, thực sự giải thoát, chứng quả thành Phật.

32. Giác quán: Là hai công đức của Sơ thiền. Khi hành giả tu tập chứng Sơ thiền, thì thành tựu 5 công đức của Định, là Giác quán (chổ khác gọi là Tầm Từ), là quán sát thô, quán sát tế, hỷ, lạc, nhất tâm. Giác quán là hai trạng thái thô nhất nhưng khi xả bỏ được Giác quán thì chứng Nhị thiền, xả bỏ Hỷ thì chứng Tam thiền, còn lại Lạc, nhất tâm. Lìa bỏ Hỷ chính thức vào Tứ thiền là Xả niệm thanh tịnh.

33. Vô minh:

Gồm có 2: Căn bản vô minh là sự ngu tối có từ vô thỉ, căn bản; Chi mạt vô minh còn gọi là phiền não nhánh nhóc, ngọn cành, có nghĩa là nhỏ, mỏng, nhẹ, cạn, dễ trừ. Vô minh còn có nghĩa khác là mê sự và mê lý. Mê sự thuộc về Tư hoặc, như mê lầm bản chất các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc. Mê lý là mê về lý Tứ đế Khổ Tập Diệt Đạo. Do đó, khi tỏ ngộ lý Tứ đế thì dứt hết phần mê lý, vào kiến đạo vị. Khi đoạn trừ hoàn toàn sự chấp các pháp… là thật có, thì đoạn trừ hoàn toàn Tư hoặc, vào Tu đạo vị.

34. Nhục nhãn:

Cặp mắt thịt của phàm phu, chúng sinh. Nhục nhãn là một trong hệ thống ngũ nhãn, 5 cặp mắt của chúng sinh cho đến Phật quả. Đó là nhục nhãn, thiên nhãn, đạo nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn. Cổ đức có bài kệ: “Nhục nhãn ngoại phi thông. Thiên nhãn thông phi ngoại. Đạo nhãn dung tục. Pháp nhãn quán pháp không. Phật nhãn kiến dung thông – Mắt thịt ngại không thông, Thiên nhãn thông không ngại. Đạo nhãn quán ngã không, Pháp nhãn quán ngã pháp đều không. Phật nhãn thấy vô cùng”. Tóm lại, Nhục nhãn cặp mắt của chúng sinh bình thường, Thiên nhãn là mắt của chư Thiên, Đạo nhãn là mắt của A la hán, Pháp nhãn là mắt của Bồ tát, Phật nhãn là mắt của Phật. Như Kinh Pháp cú nói: “Bát Chánh đạo thù thắng, Tứ đế lý cao siêu. Trên hết trong bậc Thánh, Phật nhãn là tối thượng” (PC. 273)

35. Biện tài:

Nói đủ là bốn Biện tài, bốn tài biện luận của Bồ tát và A la hán (Tứ vô ngại giải). Bốn biện tài là:

- Pháp vô ngại biện tài: Thông suốt các pháp, diễn đạt không chướng ngại.

- Nghĩa vô ngại biện tài: Thông suốt nghĩa lý, giảng dạy vô ngại.

- Ngữ biện tài: Thông hiểu các ngôn ngữ, danh từ để sử dụng khi giảng kinh thuyết pháp.

- Nhạo thuyết biện tài: Khi có đầy đủ ba năng lực trên thì luôn luôn ưa thích, muốn giảng kinh thuyết pháp, không biết mõi mệt.

36. Tổng trì: Chữ Phạn là Dharani = Đà La Ni. Có nghĩa là tóm thu các pháp, giữ gìn không cho mất mác, giữ không cho tán thất điều thiện, giữ không có một mảy mai điều ác phát sinh. Nói rộng ra là có 4: Pháp tổng trì, Ngữ tổng trì, Nghĩa tổng trì, và Đà la ni tổng trì. Nghĩa là giữ gìn các pháp, những ý nghĩa, những ngôn ngữ đã hiểu biết và các loại thần chú.

37. Tỳ ni: Dịch thoát của từ Vinaya = Tỳ Nại da = Luật. Có 3 danh từ: Tỳ Nại da (Vinaya) luật: Các quy chế, luật chế định. Ba la đề Mộc xoa (Patimoksa) – Biệt giải thoát = Giải thoát từng loại 1. Thi la (Sila) = Giới, nên ghép chung là Giới luật.

Tuy nhiên, để phân biệt rõ ràng, Giới là từng điều mục chế định, như Giới thứ nhất…, Luật là các quy định sinh hoạt như Oai nghi, các Pháp Yết ma, các Kiền độ v.v… Giới có ý nghĩa thu hẹp, luật mang ý nghĩa tổng quát, bao hàm. Nếu giữ cả hai, gọi là người giữ đủ giới luật.

38. Chư Thiên: Nói rộng là Chư Thiên các cõi Trời.

a. Dục giới có 6 cõi trời Dục là Tứ Thiên vương (Trì quốc, Quảng mục, Đa văn, Tỳ Sa môn Thiên vương), Đao lợi thiên, Dạ ma thiên, Đâu xuất thiên, Hóa lạc thiên, Tha hóa Tự tại thiên.

b. Sắc giới có:

- Sơ thiền: Phạm chúng, Phạm phụ, Đại phạm.

- Nhị thiền: Thiểu quang, Vô lượng quang, Quang Âm.

- Tam thiền: Thiểu tịnh, Vô lượng tịnh, Biến tịnh thiên.

- Tứ thiền: Phước sanh, Phước ái, Quảng quả, Vô tưởng; Vô phiền, Vô nhiệt, Thiện kiến, Thiện hiện, Sắc Cứu cánh thiên (Ngũ Tịnh Cư thiên).

c. Vô Sắc giới: Không vô biên xứ thiên, Thức vô biên xứ thiên, Vô sở hữu xứ thiên, Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên.

39. Ba ngàn thế giới: Có nghĩa 10 Thái dương hệ là một thế giới, 1000 thế giới là 1 Tiểu thiên thế giới. 1.000 Tiểu thiên thế giới là 1 Trung thiên thế giới. 1.000 Trung thiên thế giới là 1 Đại thiên thế giới. Cộng 3 lần ngàn thành 3.000 Đại thiên thế giới (1 tỷ). Nói rõ hơn, 1 Thái dương hệ gồm 9 định tinh: Mặt trời, mặt trăng, quả đất, kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, hải vương tinh.

40. Tánh Tam bảo: Nói đủ là Tự tánh Tam bảo, là Thể tánh Tam bảo Phật, Pháp, Tăng có sẵn và đầy đủ ở tại Tâm của chúng sanh. Nhưng khi đã Quy y Tam bảo, thì cần phát huy thể tánh Tam bảo sẵn có của chính mình. Đó là Tự tánh sáng suốt (Phật bảo), Tự tánh thường trú (Pháp bảo), Tự tánh thanh tịnh (Tăng bảo). Như Trường Định Hòa thượng nói: “Ta có nhà Tam bảo, trong vốn không sắc tướng, ngời ngời tự tại chẳng làm chi. Phơi phới rồi thì sẽ thấy kỷ” (Bố Đại Hòa thượng). Nói rộng hơn, Tự tánh Tam bảo là một trong ba loại Tam bảo: Xuất thế gian Tam bảo, chỉ cho Đức Phật, pháp Tứ đế… do Đức Phật nói, chư đại đệ tử Phật; Thế gian Trụ trì Tam bảo: Hình tượng Phật, kinh điển do Thánh đệ tử Phật kiết tập, lưu hành hiện nay, chư Tăng Ni hiện tại đang làm công tác Phật sự, hoằng pháp lợi sanh… Trong ba loại Tam bảo, Tự tánh Tam bảo là phần lý tánh tuyệt đối và cao nhất, song cũng phải Xuất thế gian Tam bảo và Thế gian Trụ trì Tam bảo mà hiện này, chỉ rõ cho chúng sanh tin hiểu, tu tập và chứng ngộ.

41. Bốn pháp Vô úy: Bốn pháp không sợ hãi, là một trong 18 pháp không cùng với Thinh văn, Nhị thừa, có nghĩa là chỉ có Phật mới có, còn các vị khác không có, kể cả hàng Bồ tát. Bốn pháp không sợ sệt là:

- Nhất thiết trí vô sở úy: Giữa hàng chư Thiên, ma vương, ngoại đạo, Đức Phật tự tại tuyên bố Ngài là đấng Nhất thiết trí một cách tự tại không sợ hãi.

- Lậu tận vô sở úy: Giữa chư Thiên, ma vương, ngoại đạo, Đức Phật tuyên bố Ngài là đấng đã đoạn trừ hết các lậu hoặc, phiền não, vô minh một cách tự tại không sợ hãi.

- Thuyết giải thoát vô sở úy: Giữa chư Thiên, ma vương, ngoại đạo, Đức Phật tuyên bố Ngài hết phiền não là giải thoát một cách tự tại không sợ hãi.

- Thuyết chướng đạo vô sở úy: Giữa chư Thiên, ma vương, ngoại đạo, Đức Phật tuyên bố phiền não chướng ngại đạo giải thoát một cách tự tại không sợ hãi.

43. Ba nghiệp: Thân nghiệp (Thân hàng động), khẩu nghiệp (miệng nói năng), ý nghiệp (Tâm suy nghĩ). Nói rộng ra, Thân nghiệp có 3: Sát sinh, trộm cướp, dâm dục; Khẩu nghiệp có 4: Nói dối, nói thêm bớt, nói lời đâm thọc, nói lưỡi đôi chiều, nói lời hung ác, ác độc …; Ý nghiệp có 3: Tham lam, sân hận, si mê. Cộng lại thành 10 nghiệp ác.

44. Ba mươi bảy phẩm Trợ đạo: Còn gọi là 37 pháp hỗ trợ tu tập để chứng đạo Bồ đề, là giác ngộ, giải thoát, thành Phật. 37 phẩm hộ trợ Bồ đề là pháp tu căn bản của Tam thừa Thinh văn, Duyên giác và Bồ tát thừa. Đó là:

a. Bốn Niệm xứ (Bốn đối tượng quán niệm): Quán thân vô thường, Quán thọ là khổ, Quán tâm vô thường, Quán pháp vô ngã, xa lìa bốn thứ điên đảo của chúng sanh.

b. Bốn pháp siêng năng chơn chánh: Siêng năng đoạn trừ các điều ác, ngăn chận các điều ác không cho phát sinh; Siêng năng duy trì các điều thiện, tìm mọi phương tiện làm cho điều phát sinh.

c. Bốn pháp đưa đến thần thông, bốn pháp như ý:

- Dục như ý túc, do sự mong muốn nỗ lực tu tập đưa đến chứng thần thông.

- Tinh tấn như ý túc: Nhờ siêng năng tu tập đưa đến chứng thần thông.

- Nhất tâm như ý túc: Nhờ chuyên định tâm đưa đến chứng thần thông.

- Quán như ý túc (Huệ): Thành tựu trí huệ, phát khởi năng lực thần thông tự tại vô ngại, trên cơ sở định và thấy các pháp là không.

d. Ngũ căn (Năm căn): Tín căn, Tinh tấn căn, Niệm căn, Định căn, Huệ căn. Căn là cơ sở phát sinh, là nền tảng, là điểm tựa của 5 pháp Tín, Tinh tấn, Niệm, Định, Huệ.

e. Ngũ lực (Năm lực): Tín lực, Tinh tấn lực, Niệm lực, Định lực, Huệ lực, là thành quả, là sức mạnh của 5 căn trên.

f. Bảy pháp đưa đến giác ngộ: Trạch pháp, là lựa chọn pháp tu thích hợp; Niệm là ghi nhớ, nỗ lực tu tập pháp đã chọn; Tinh tấn là siêng năng tu tập theo pháp đã chọn; Hỷ, Khinh an, Định và Xả, bốn pháp này là Quả.

g. Tám pháp chơn chánh: Tám pháp tu hành chứng quả.

- Chánh kiến: Thấy rõ các pháp là vô thường, khổ, không, vô ngã.

- Chánh tư duy: Tư duy về các pháp quán niệm trên.

- Chánh ngữ: Xa lìa 4 tội vọng ngữ.

- Chánh nghiệp: Xa lìa 10 điều ác.

- Chánh mệnh: Xa lìa 4 thứ tà mạng.

- Chánh tinh tấn: Thực hành 4 sự siêng năng chân chánh.

- Chánh niệm: Thực hiện 6 pháp quán niệm, 10 pháp…

- Chánh định: Tu tập, thành tựu Tứ thiện, bát định, bát giải thoát v.v…

45. Sáu pháp thần thông:

- Thiên nhãn thông: Trí tuệ của đôi mắt thấy tất cả các pháp và thế giới.

- Thiên nhĩ thông: Trí tuệ nghe được tất cả loại âm thanh.

- Tha tâm thông: Trí biết được tâm niệm của chúng sanh.

- Túc mệnh thông: Trí biết được đời trước.

- Thần túc thông: Năng lực tự tại vô ngại.

- Lậu tận thông: Trí biết đã đoạn trừ hết lậu hoặc, chứng quả thực sự.

Trong 6 pháp thần thông trên, Thiên nhãn thông thuộc về tương lai. Túc mệnh thông thuộc về quá khứ. Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông, Thần túc thông, Lậu tận thông thuộc về hiện tại.

46. Pháp giới:

Theo Kinh Hoa Nghiêm, có 04 loại:

- Sự Pháp giới: Sự là hình tướng sai biệt của các pháp trong vũ trụ. Trong vũ trụ các pháp đều có hình tướng sai biệt, giới hạn rõ ràng như nước lạnh, nước đá, nước sôi, hơi nước v.v…, đều có tướng trạng khác nhau.

- Lý pháp giới: Là phần bản thể, thể tánh sai biệt của tướng trạng các hiện tượng các pháp trong vũ trụ. Như nước lạnh, nước đá, nước sôi, hơi nước, dù tướng trạng sai khác, nhưng cùng một lý tánh là nước, là tánh ướt, đầy đủ tính chất của nước.

- Lý sự vô ngại pháp giới: Các hiện tượng trong vũ trụ đều nương nhau tồn tại trên hai phương diện bản thể, lý tánh và hiện tượng. Như sóng không rời nước. Nước không rời sóng. Sóng là nước, nước là sóng, trong sóng có nước, trong nước có sóng v.v…

- Sự sự vô ngại pháp giới: Các sự vật trong vũ trụ đều nhờ nhau mà tồn tại và hiển bày được tác dụng và ý nghĩa không tách rời nhau như điện – điện bàn, quạt xoay, máy lạnh, tủ lạnh… nhưng không thể tách rời năng lực chung là dòng điện, tách rời dòng điện thì không có điện quạt, điện máy, điện đèn, điện bàn ủi v.v… và mất đi tác dụng.

47. Ấm, giới, nhập: Là 3 khoa giáo pháp của Đức Phật. Đối với chúng sanh mê tâm, thì Đức Phật trình bày chi tiết về tâm hiệp phần sắc là 5 uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Đối với chúng sanh mê sắc, thì Đức Phật trình bày chi tiết về sắc, hiệp tâm 12 nhập, 12 xứ, 6 căn, 6 trần, 11 phần sắc. Đối với chúng sanh mê cả tâm lẫn sắc, Đức Phật trình bày chi tiết cả hai là 18 giới, gồm 6 căn, 6 trần và 6 thức. Đối với chúng sanh không mê tâm hay sắc, thì Đức Phật chỉ trình bày một pháp là Danh sắc (Tâm và vật chất) trong 12 nhân duyên.

48. Không, vô tướng, vô nguyện:

- Không: Tất cả các pháp do duyên sanh, nên tất cả là không, xa lìa chấp Ngã và Pháp trên cơ sở Danh.

- Vô tướng: Tất cả các pháp không có thật tướng: Sắc, thinh, hương, vị, xúc, sinh, trụ, dị, diệt, tướng nam, tướng nữ, cao thấp, mập ốm v.v… xa lìa chấp Ngã, Pháp trên cơ sở Tướng.

- Vô nguyện (Vô tác): Tất cả các pháp không Danh, không Tướng, nên không mong cầu, không tạo tác, được an lạc, giải thoát chính là Niết bàn.

49. Nhất thiết chủng trí: Là một trong ba loại Trí của Phật, Bồ tát và A la hán.

- Nhứt thiết trí: Trí biết tất cả pháp là không. Trí này về mặt Thông giáo là thuộc hàng Tam thừa, Thinhh văn, Duyên giác, Bồ tát (Phật).

- Đạo chủng trí: Trí biết tất cả Đạo pháp, tùy theo căn cơ trình độ, nhu cầu của chúng sanh mà nói pháp. Trí này thuộc về hàng Bồ tát.

- Nhứt thiết chủng trí: Trí của tất cả các loại trí tuệ của bậc dưới là từ Bồ tát trở xuống cho đến hàng Nhị thừa. Từ đó, có thể hiểu biết một cách đại loại như sau: Nhất thiết trí là trí A la hán; Đạo chủng trí là trí của Bồ tát; Nhứt thiết chủng trí là trí của Phật  và chỉ có Phật mới đầy đủ ba trí.

50. Chuyển luân Thánh vương: Theo kinh Trường A hàm, Chuyển luân Thánh vương có 4 hạng:

- Thiết luân vương: Có những đồ quý bằng sắt, xuất hiện ở cõi Diêm phù đề, cai trị một châu thiên. Tuy là Chuyển luân vương nhưng phước đức còn tương đối kém so với vị khác.

- Đồng luân vương: Chuyển luân Thánh vương có những đồ quý bằng đồng, xuất hiện ở thế gian, trị vì 02 châu thiên hạ là Đông thắng thần châu và Diêm phù đề, năng lực và phúc đức hơn loại Luân vương thứ nhất.

- Ngân luân vương: Chuyển luân vương có những đồ quý bằng bạc, xuất hiện ở thế gian, trị vì 03 châu thiên hạ là Đông thắng thần châu, Tây ngưu hóa châu, Nam Diêm phù đề.

- Kim luân vương: Chuyển luân vương có những đồ quý bằng vàng xuất hiện ở thế gian, trị vì 04 châu thiên hạ là Đông thắng thần châu, Nam Thiệm bộ châu, Tây ngưu hóa châu, Bắc câu lô châu, năng lực và phúc đức tuyệt vời, cao nhất trong các loại Luân vương (Luận Trí độ). Đồng thời có những phúc báu phụ như đầy đủ 4 đức là nhiều của báu, đoan chánh phương phi, không bịnh tật, trường thọ (khi ánh sáng tắt, báo hiệu Chuyển luân vương sắp băng hà) và đầy đủ 7 báu như: Huy hiệu 1000 căm, voi báu màu trắng, ngựa báu, thần châu báu, ngọc nữ báu, thần tài báu, tướng lĩnh báu (chủ binh).

51. Bốn Châu thiên hạ:

- Đông thắng thần châu: Hình dáng như nửa mặt trăng, gương mặt con người như nửa mặt trăng (hình má bầu), tuổi thọ trung bình 250 tuổi.

- Nam Diêm phù đề (Vì có cây Diêm phù màu vàng rực) và giàu có 4 việc: Nhân ái, chịu tu, chịu khó và có trí tuệ nhớ dai. Hình dáng châu này như thùng xe, gương mặt con người hình hon, hơi dài, tuổi thọ trung bình 100 tuổi.

- Tây ngưu hóa châu: Hình dáng châu này hình tròn, gương mặt con người tròn trịa, cách sinh hoạt là trao đổi hàng hóa để sống. Tuổi thọ trung bình là 500 tuổi.

- Bắc Câu lô châu: Hình dáng châu này hình vuông, gương mặt con người hình chữ điền (vuông). Tuổi thọ trung bình là 1000 tuổi (Kinh A Hàm, Luận Đại Trí Độ).

52. Ta bà thế giới: Là thế giới có nhiều sự khổ đau, nhơ bẩn, khó chịu, nhưng chúng sinh thế giới nầy đều có thể chịu đựng được để nỗ lực thực hiện các ước nguyện như xây dựng, phát triển xã hội giàu đẹp v.v…, nhất là chịu khó tu hành khổ hạnh, để đạt được sự an lạc giải thoát. Thế giới ta bà (kham nhẫn, uế độ) là thế giới của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni làm Giáo chủ, cũng là thế giới con người đang sinh sống nhưng phải hiểu ở nghĩa rộng hơn là gồm cả 3000 thế giới. Vì một thái dương hệ gồm có 9 định tinh, mặt trời, mặt trăng, quả đất, kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, hải vương tinh là quỹ định tinh; 10 thái dương hệ là một tiểu thế giới; 1000 mặt trời, 1000 mặt trăng, 1000 núi Tu di, 1000 bể cả v.v… là một tiểu thiên thế giới; 1000 tiểu thiên là một trung thiên thế giới; 1000 trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới, cộng 3000 lần lại gọi là Tam thiên Đại thiên thế giới, là một tỷ thế giới.

53. Bốn biển: Thông thường thế gian hay nói 5 châu 4 biển, là bao quát cả vũ trụ loài người trên thế gian nầy, cũng nói lên tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái lẫn nhau. Đó là Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Úc, Châu Phi và 4 biển là Thái Bình dương, Đại tây dương, Ấn độ dương và Bắc băng dương. Như thế gian có câu: “Tứ hải giai huynh đệ” (Bốn biển đều là anh em).

54. Địa ngục sắt…: Ý nói về mặt sự tướng, hiện tượng thì sai khác do nghiệp lực chúng sinh thấy có sai khác. Còn bản thể chơn như, nhất tâm, pháp giới tánh, Phật tánh thì đồng nhất, bình đẳng vô nhị. Ví như Đề Bà Đạt Da bị đọa Vô gián địa ngục, nhưng khi mãn nghiệp thì sẽ thành Phật, vì có Phật tánh bình đẳng với các loài khác, cho đến Bồ tát, Phật cũng thế, nên trong kinh Pháp Hoa Đức Phật thọ ký cho Đề Bà Đạt Đa sẽ thành Phật trong tương lai, hiệu là Thiên Vương Như Lai (Phật). Trong Lục Đạo tập, có một vị Tăng hỏi Thiền sư: Con cho (súc sinh sắc) có Phật tánh không?”, Đáp: Có. Tăng hỏi: Có sao tôi bị đọa làm cho. Đáp: Vì nghiệp báo phải đọa làm chó. Song khi nghiệp báo hết thì chuyển kiếp, Phật tánh hiện sẽ thành Phật. Vì bản thể có pháp giới chúng sinh đồng nhất, bình đẳng như nhau.

55. Không trụ bên nầy…: Ý chỉ cho Lý Trung đạo. Vì Trung đạo thì không trụ Hữu biên, Vô biên… xa lìa hai lối chấp có và không, thành tựu Trung đạo diệu lý. Như Thái tử Tất Đạt Đa tu hành không thiên về khổ hạnh, không thiên về hưởng dục lạc, an trú Trung đạo, thành tựu Chánh trí, thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni.  

56. Tôn giả A Nan, con của Bạch Phạn Vương, anh em ruột với Đề Bà Đạt Đa, xuất gia theo Phật trong lần Đức Phật trở về thăm lại thành Ca Tỳ La Vệ và Phụ thân 12 năm sau ngày Phật Thành đạo. Về sau, Ngài được chọn làm thị giả cho Phật đến ngày Phật nhập Niết bàn. Nhân duyên giữa Phật và Ngài A Nan được nói rõ trong Kinh Pháp Hoa, là dưới thời Đức Phật Không Vương Như Lai, Phật và Ngài cùng phát tâm Bồ đề, nhưng do tinh tấn tu hành nên Đức Phật Thích Ca thành Phật trước, còn tiền thân Ngài A Nan do học rộng hiểu nhiều, kém tu tập nên thành Phật sau. Trong Kinh Pháp Hoa, Đức Phật thọ ký cho Ngài sẽ thành Phật trong tương lai, hiệu là Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai. Ngài là một trong 10 vị Đại đệ tử Phật, biệt hiệu là Đa văn số 1.

57. Tôn giả Ca Diếp, là một trong hàng Thập Đại đệ tử Phật, Đầu đà khổ hạnh số 1. Ngài có đặc danh là Ẩm Quang, do đời trước mặc áo bằng vàng cho Phật, cho nên đời này được qua báo là thân phát ra ánh sáng, áp đảo những ánh sáng khác, nên gọi là Ẩm Quang (nuốt ánh sáng). Trong Pháp hội Pháp Hoa, Đức Phật thị ký cho Ngài tương lai sẽ thành Phật hiệu là Quang Minh Như Lai.

58. Bồ đề, nếu nói rộng ra là có 3: Chân tính Bồ đề: Chân tính là đạo, dẫn đến Bồ đề; Thật trí Bồ đề: Thật trí là đạo dẫn đến Bồ đề; Phương tiện Bồ đề: Phương tiện thiện xảo là đạo dẫn đến Bồ đề (Kinh Kim Quang Minh). Về quả vị, có 3: Thinh văn Bồ đề, Duyên giác Bồ đề, Bồ tát Bồ đề (Phật Bồ đề), là những pháp tu theo sự phát Bồ đề tâm, đưa đến chứng các quả vị, từ đó có ra 3 Thừa (Pháp) (Kinh Xuaatst sinh Bồ Đề).

59. Tất cả Phật pháp: Tên Kinh nầy có một danh từ đặc biệt là “Tất cả Phật pháp” mà Đức Phật đã xác định với Tôn giả A Nan. Tất cả Phật pháp, danh từ xuất phát từ Kinh Tăng Nhất A Hàm, đó là một câu, một bài kệ của Kinh Tăng Nhất, có thể phát sinh ra tất cả Phật pháp. Và Pháp ấy được cô đọng trong bài kệ của Phật Ca Diếp:

- Không làm các điều ác: Thuộc về Chỉ, Đoạn đức, Niết bàn, Pháp thân, giới Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Bồ tát giới v.v… bao gồm 3 nghiệp ác, thật hành 10 điều ác; ngược lại, là do 10 điều thiện, cùng 84.000 oai nghi là giới khinh của Tỳ kheo và Bồ tát;

- “Thực hành các điều thiện: Thuộc Trí đức, Bồ đề, Bát nhã, là Quán, là Trí tuệ, tu tập các Pháp hành, bao gồm 4 đế, 12 nhân duyên, Quán huệ, 3 huệ, 6 pháp Ba la mật, 10 độ, 5 loại trí tuệ, 4 thứ biện tài, 10 trí A la hán, 10 trí huệ của Phật v.v… Quán về 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới, 6 niệm, 10 niệm v.v…

- Tu tập 37 Phẩm trợ đạo: 4 đối tượng quán niệm, 4 pháp đưa đến thần thông, 4 sự siêng năng chân chính, 5 căn, 5 lực, 7 pháp chứng Bồ đề, 8 pháp chân chính, 10 pháp Vô học v.v…

- Giữ tâm cho thanh tịnh: Chỉ quán song tu, Giới định tuệ đồng thời. Thành tựu Phật quả, đầy đủ tâm Từ bi hỷ xả, phát đại nguyện cứu độ chúng sinh, dẫn ra 4 tâm vô lượng, 4 pháp nhiếp hóa, 3 niệm đại bi v.v… thành tựu giới: “Lợi ích chúng sinh”.

Tóm lại, các Pháp là bam gồm pháp thế gian, pháp xuất thế gian, pháp hữu lậu, vô lậu, pháp học (Tạng Kinh, Tạng Luật), pháp hành (Tạng Luật), pháp Thinh văn, Duyên giác, Bồ tát (Phật) v.v… Cũng như biển cả, nước trăm sông đều đổ về, và từ đấy chảy vào 100 sông. Như Kinh Hoa Nghiêm nói: “Không một pháp nào không từ pháp giới phát sinh. Cuối cùng, không một pháp nào không trở về với pháp giới” (Vô bất trùng thử pháp giới lưu, diệc bất hoàn qui thử pháp giới).

60. Đức Phật Bảo Chủ và Thế giới Bảo Tướng:

Trên quan điểm Pháp giới là Tâm chơn như, thì các cảnh giới, chư Phật đều hiện hữu trong Tâm pháp giới, do đó dù thế giới nầy cách thế giới Ta bà 10.000 cõi Phật, dù xa nhưng không xa, vì không ngoài pháp giới, chỉ trong một niệm là hiện hữu và đầy đủ tất cả. Cho nên Cổ đức nói: “Phật tại Tây phương tâm bất viễn, Kinh lai Đông độ niệm vô cùng”. (Phật A Di Đà ở phương tây cách thế giới Ta bà 10 ngàn ức cõi, nhưng xa chỉ là tại Tâm, trong một niệm là thấy Phật, thấy cảnh giới cực lạc hiện lên. Kinh điển ở Tây Trúc (Ấn Độ) Đông độ (Trung Quốc) nhưng không xa, chỉ trong một niệm là đầy đủ tất cả, vô cùng tận, thường trú bất sanh bất diệt).

- Như Kinh Pháp Bảo Đàn, Đức Lục Tổ dạy: “Chín bộ Kinh, 12 Phần giáo có đủ tại Tâm các ông mà không trực nhận, đi tìm bên ngoài là không có lẽ đó, là không hợp lý”.

- Về mặt Giới luật, có thể đồng nhất với tư tưởng Kinh Phạm Võng là Giới Bồ tát thuộc về Tâm giới - Kim Cang Quang Minh bảo Giới. Kim Cang là Pháp thân đức, Quang Minh là Bát Nhã đức, Bảo là Giải thoát đức. Ở đây cũng vậy, Phật là Bát nhã đức, Bảo Chủ là Giải thoát đức, Của báu là vàng bạc, lưu ly v.v… không thay đổi tính chất, tên gọi – Pháp thân đức (vì thường trú bất sanh bất diệt). Theo Luận Đại Trí Độ, về lý của các báu, là chỉ cho 4 đức Niết bàn: Chân thường, Chân lạc, Chân ngã và Chân tịnh.

 
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Từ khóa: n/a

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

Trang chủ  |  Giới thiệu  |  Tin tức sự kiện |  Thông báo  |  Văn bản pháp Luật  |  Cư sĩ Phật tử  |  Gia đình Phật tử  |  Tìm hiểu Phật giáo  |  Pháp âm  |  Đời sống  |  Từ thiện |  Gửi bài viết
______________________________________________________________________________________________________________________________________________

Quý vị vui lòng ghi rõ nguồn Phattu.vn khi phát hành lại nội dung từ trang web này