Hành Động Tư Duy - Phật Giáo Việt Nam
07:47 +07 Thứ sáu, 10/05/2024

Hành Động Tư Duy

Thứ hai - 17/09/2012 14:25
(HDPT) - Tư duy là dòng chảy liên tục không ngừng nghỉ để chống lại sự im lặng … đó chính là con đường đi của triết học cũng như các ngành liên quan..
 

Nhờ có tư duy mà xã hội loài người không ngừng phát triển, không ngừng khám phá bản thân, cũng như thế giới rộng lớn bên ngoài, hòng phục vụ sự sống của con người ngày một tốt hơn. Đó là văn minh tiến bộ của nhân loại.

Lời đầu sách

Như ta đã biết, đời sống tinh thần của con người gồm có ba phần: Ý thức, tiềm thức và vô thức hay còn gọi là siêu ngã, tự ngã và bản ngã. Tất cả mọi hoạt động của tinh thần dựa trên hệ thống này được gọi là tư duy. Tư duy là một dạng năng lực tinh thần đặc biệt của con người, thông qua tư duy, mà  con người nhận biết được thế giới quan bên ngoài, cũng như có được nhân sinh quan ở bên trong…Vì thế tư duy có thể chia ra làm hai hướng ngược chiều nhau, để khám phá thế giới vật chất này… Một hướng bằng con đường khoa học, và một hướng bằng tâm lý, nhưng cuối cùng chúng cũng gặp nhau tại một điểm, và cũng chính từ đây con người phát hiện ra thượng đế, tôn giáo, nghệ thuật, thiên văn, toán học và triết học.

Tư duy là dòng chảy liên tục không ngừng nghỉ để chống lại sự im lặng … đó chính là con đường đi của triết học cũng như các ngành liên quan, nhờ có tư duy mà xã hội loài người không ngừng phát triển, không ngừng khám phá bản thân, cũng như thế giới rộng lớn bên ngoài, hòng phục vụ sự sống của con người ngày một tốt hơn. Đó là văn minh tiến bộ của nhân loại.

Ngày nay, xã hội loài người đã tiến bộ vượt bậc với những thành tựu vĩ đại của các ngành khoa học kỷ thuật như internet, tàu vũ trụ và vũ khí hạt nhân… Con người đang dần khám phá tất cả các hành tinh trong hệ mặt trời vv… Những tiến bộ này nó cũng đã đánh dấu những chặng đường phát triển của tư duy con người, từ sơ khai đến văn minh như ngày nay. Điều này cho chúng ta thấy rằng. Các hình thái tư duy của con người là rất quan trọng trong quá trình tư duy để phát triển và tiến bộ, vì đó là công việc đầu tiên mà con người phải làm, cũng như mơ ước và hy vọng vươn tới các vì sao trong vũ trụ bao la. Vì thế, con người cần thiết phải biết cách tư duy tiến bộ thì tất cả các mặt khác trong đời sống mới tiến bộ được. Vì trong thời đại tràn ngập thông tin này, chúng ta rất dễ bị rối loạn cũng như ngộ nhận về thông tin. Vì thế tư duy là một hình thái hoạt động trừu tượng nhất, mà người ta phải biết cách để nắm bắt vấn đề cũng như xua tan những hoài nghi sinh ra trong quá trình vận động tư duy. Mục tiêu cuối cùng của tư duy là sự hiểu biết, nhưng sự hiểu biết cũng có hai dạng khác nhau đó là: Sự hiểu biết theo logic hợp lý và sự hiểu biết  không theo logic hợp lý, hay còn gọi là sự hiểu biết của những điều bất  hợp lý, theo sự xác nhận của ý thức chúng ta.

Sự hiểu biết theo logic hợp lý là kết quả đạt được trong quá trình phân tích , tổng hợp xắp xếp gọn gàng dung lượng kiến thức của con người ở tầng ý thức. Còn loại hiểu biết bất hợp lý là kết quả đạt được trong quá trình phân hủy những thông tin hình ảnh ở tầng tiềm thức và vô thức của chúng ta, làm cho chúng ta có thể hiểu được cả những điều phi lý mà còn gọi là cách hiểu của thiền học. Vì thế đây là cách tư duy trừu tượng rất khó khăn, mà ý thức không thể kiểm soát được, cũng như vượt qua những giới hạn của các giác quan. Nên người ta phải tập trung tinh thần nơi phần tiềm thức và vô thức, có nghĩa là bằng tâm lý để đi xuyên qua những trở ngại tinh thần có thể xảy ra, mà khi đó lý trí đã không thể giải quyết được. Những nhà triết học là những người đã xây dựng cho mình một con đường tư duy thông suốt từ ý thức đến tầng tiềm thức và cuối cùng là vô thức. Những người đã đi qua được giới hạn này rồi, thì tinh thần họ như được mở ra một cánh cửa mới… để tiếp tục tư duy lên cao hơn.

Ngày nay chúng ta thường được nghe cụm từ “tự động tâm linh” hay nói khác hơn là tư duy tự động. Là loại tư duy ở tầng tiềm thức và vô thức, hay còn gọi là tư duy tự nhiên, cảm tính, chủ quan. Nó khác với lối tư duy ở tầng ý thức, là lối tư duy  lý tính, khách quan. Hai loại tư duy này không hề tách rời nhau được, vì đó là nền tảng tinh thần của con người. Nnhưng cũng có những trường hợp thiên về lý tính nhiều hơn, hoặc cảm tính nhiều hơn. Những người làm công tác quản lý, lảnh đạo giỏi thường có lối tư duy hòa hợp, cân bằng giữa lý tính và cảm tính. Những người thiên về lý tính thì thường chỉ hiểu được những điều hợp lý mà thôi, còn những người cảm tính còn có thể hiểu được cả những điều bất hợp lý nữa. Vì nó có thể thích hợp với những khuôn mẫu tâm lý của con người, nhưng không thể thích hợp với những khuông mẫu ý thức của chúng ta.

Nói đến tư duy là nói đến năng lực tinh thần của con người, có người có năng lực này cực lớn nhưng không biết hướng nó vào những mục đích cụ thể, vì nó luôn phát sinh các khái niệm, định kiến, lý lẽ, tình cảm… cùng lúc ở nhiều tầng nhận thức khác nhau và nảy sinh khó khăn trong quá trình tư duy là sự rối loạn. Từ đó chúng ta khó lòng đưa ra được một quyết định phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của mình.

Ngược lại, các nhà lảnh đạo cao cấp thường phải ra những quyết định quan trọng, mà tầm ảnh hưởng của nó có liên quan đến quyền lợi cả hàng vạn, hàng triệu người, của cả một đất nước, một dân tộc. Là vì họ có năng lực và có môi trường rèn luyện tư duy một cách liên tục, vì thế họ có kinh nghiệm và tầm nhìn rộng lớn, nên dễ dàng đưa ra những quyết định đúng đắn, thích hợp trong những hoàn cảnh cụ thể của công việc.

Còn vấn đề bàn về ba giới hạn cô đơn  của con người trong cuộc sống hôm nay, là bàn về vấn đđề tâm lý của con người đang sống trong xã hội hiện đại. Vì  đây là thời kì thống trị của khoa học kỷ thuật, củng như cách thức tiêu dùng của con người đã khác đi, trong một xã hội công nghiệp vận động không ngừng, đã làm đời sống, văn hóa của con người dần thay đổi và trôi nhanh hơn. Từ đó càng làm con người cô đơn hơn. Vì vậy cuộc sống đđang cuộn chảy mà con người thì cứ mãi vội vã trong cô đơn. Điều này mô tả cho chúng ta thấy được tại sao con người hiện đại lại cứ than khóc mãi, phản kháng mãi với cái tôi nhỏ bé của mình.

Cô đơn là những trạng thái tinh thần của con người hoạt động ở tiềm thức và vô thức. Nơi đó luôn ẩn chứa một sức mạnh tiềm tàng của con người, là kho lưu trữ mọi hình ảnh, thông tin và kiến thức hiểu biết của chúng ta. Vì thế trong thời đại bùng nổ thông tin ngày nay, con người luôn vất vả chóng đở với những nguồn thông tin kiến thức luôn đổ vào đây không ngừng… Và sự vận động tư duy là điều tất yếu của xã hội hiện đại nói chung, và từng con người nói riêng, là phải tư duy như thế nào nữa, sao cho sự tìm tòi học tập của chúng ta không còn là gánh nặng tinh thần, mà là niềm vui thú trong khám phá sáng tạo.

Khi ta tìm hiểu và khám phá đời sống tinh thần của con người, thì cũng như ta tìm hiểu khám phá về thế giới vật chất, vì con người là một trong những thành phần cấu tạo nên vật chất. Nếu như con người xây dựng hình tượng của thượng đế và các vị thần linh theo hình mẫu của mình để ứng dụng vào cuộc sống, thì hình tượng đó cũng là một thành phần thuộc về vật chất. Vì thế vật chất có trước, ý thức có sau. Điều này rất phù hợp với nhận thức duy vật biện chứng trong triết học hiện đại ngày nay.

Khi viết quyển sách nhỏ này, tác giả mong muốn ghi lại những kinh nghiệm tâm lý, và kết quả của tư duy một cách khái quát có hệ thống trong nhiều năm trời. Tác giả đã cố gắng quên hết những điều trong sách vở để viết với một tinh thần tư duy độc lập và bằng những hiểu biết mới của bản thân. Vì lý luận bao giờ cũng bắt nguồn từ cuộc sống, và triết học cũng đều được khai sinh từ tâm thức con người, điều này không có nghĩa là nó xa rời lý luận sách vở, mà nó đã vượt qua, và thoát ra ngoài lý luận sách vở, để nắm vững được những điều cốt yếu của lý luận và tránh sa vào việc “ tầm chương trích cú” quá nhiều.

Tác giả rất mong sự phê bình, góp ý của các nhà nghiên cứu và các bạn đọc, với mong muốn được học hỏi nhiều hơn, dù sao tác giả cũng chỉ là một họa sỹ mà thôi. Quyển sách vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập, thiếu sót, rất mong các bạn thông cảm. Vì đây cũng là một lĩnh vực rộng lớn mà người ta đã và sẽ tốn rất nhiều giấy mực để nghiên cứu, nhưng vẫn không bao giờ hết được. Tác giả xin chân thành cảm tạ!

PHẦN I

CÁC HÌNH THÁI TƯ DUY

Khái quát các bước tư duy của con người

Như chúng ta đã biết, con người có nguồn gốc rất xa xôi từ những động vật đi bốn chân, dần về sau đã đi được hai chân vì cần thiết phải thích nghi với môi trường sống để sinh tồn theo tập hợp bầy đàn, và từ đó đã bắt đầu biết tư duy một cách sơ khai nhất, để định hướng nguồn nước, săn mồi, kiếm sống, sinh sản, sinh tồn vv… Từ lúc trí tuệ chưa phát triển một chút nào, những con vượn người đã phải sử dụng triệt để và hầu hết các giác quan của mình để ứng dụng vào cuộc sống, vì khả năng nhận biết của các giác quan của chúng, tốt hơn của chúng ta bây giờ rất nhiều. Ví dụ như chúng có thể nghe thấy được dòng chảy của một suối nước ngầm ở cách xa hàng mấy cây số, những mối hiểm nguy sắp bị tấn công, và ngửi được mùi hạnh phúc cũng ở cách xa hàng mấy cây số. Vì thế, sau hàng chục triệu năm tiến hóa, mà xã hội loài người vẫn còn xót lại một vài trường hợp có khả năng cảm nhận khác thường như một hiện tượng siêu nhiên, mà người ta thường gọi là các nhà ngoại cảm. Đó là những trường hợp hy hữu trong khả năng quản lý của tạo hóa còn chỗ thiếu sót, mà đầu óc con người với đầy đủ thiết bị khoa học ngày nay, vẫn không thể lý giải rõ ràng được. Và rồi cũng đã qua hàng chục triệu năm tiến hóa và thử thách, từ vượn người mới trở thành được con người ngày nay. Cùng với những thành tựu trí tuệ như hình thành ngôn ngữ, chữ viết, la bàn để định hướng và khám phá sự rộng lớn của địa cầu, rồi ngành in xuất hiện và từ đó con người mới có cơ hội học tập và tiến bộ rất nhanh, gần như trùng khớp với những thay đổi lớn của nhân loại, cùng với những ngành có tính chất bí hiểm như thiên văn, toán học, triết học,… Và từ đó sự tiến bộ vượt bậc cũng chưa thể bắt đầu cho đến khi internet ra đời. Và ngày nay, con người đã bước vào một kỷ nguyên lớn, là đứng trước sự thay đổi toàn diện trong xã hội loài người chúng ta, khi mà tri thức không còn cất dấu nơi một viện hàn lâm nào, từ khi sức mạnh truyền tải thông tin như vũ bão của hệ thống viễn thông toàn cầu, con người đã trở nên là một phiên bản mới hơn với chính mình và với các thế hệ đi trước không đầy 30 năm. Khi ngành sinh học ứng dụng đã giải mã được hệ thống gen ADN của con người, làm cho con người không có chỗ nào xa lạ với chính mình nữa, từ đó tâm lý con người đã biến thái nhiều hơn, phân cực và đối lập nhiều hơn nên hình thành tình trạng đa nhân cách. Làm cho số đông của chúng ta càng đông hơn theo đầy đủ ý nghĩa của từ “hiện đại”.

Ngày nay, người ta luôn phải đối mặt với một lượng thông tin khổng lồ, nguồn kiến thức vô tận được giao thoa nhau giữa các nền văn hóa, các ngành khoa học tiên tiến khác nhau gần như chứa đựng đầy tính nhân bản, cho nên con người ngày nay rất mệt và choáng váng trong sự chịu đựng áp lực tinh thần của thời đại mang mới. Sống trong một bối cảnh xã hội mà con người phải trục tiếp đối đầu với những thay đổi từng ngày, từng giờ. Chúng ta đã bắt đầu phải nghĩ khác, vì rất sớm buộc ta phải tư duy để thoát ra những tình trạng bế tắc, cũng như bị bắt buộc tư duy theo một hướng nào đó. Nhưng để đi qua con đường này, thì cần phải có phương pháp tư duy để loại dần những thông tin, kiến thức không cần thiết, để giải quyết được công việc và bớt đi những áp lực trong cuộc sống.

Từ các nghiên cứu, người ta chia tư duy con người ra thành các bước sau đây. Điều này chỉ cần thiết cho việc ứng dụng ở giới hạn phổ thông mà thôi, còn những nhà bác học hay thiên tài thì khả năng tư duy linh hoạt và độc đáo hơn (điều này sẽ được đề cập ở phần sau).

  1. Xác định mục tiêu và định hướng tư duy
  2. Thu nhận thông tin bằng cách trực tiếp, gián tiếp hay nhớ lại, sắp xếp phân loại khả năng, thuộc tính, thời gian theo dạng số lượng. Vận dụng kiến thức, kinh nghiệm và quan sát để chuẩn bị cho quá trình tư duy bắt đầu.
  3. Sau khi đã sắp xếp, phân loại các dữ kiện, dữ liệu trong những khuôn mẫu sẵn có, thì lúc đó ta bắt đầu so sánh, đối chiếu và tìm cách chứng minh điều này sai hoặc đúng, xác định chất lượng thông tin bằng cách dùng phương pháp so sánh.
  4. Lần lượt chứng minh bằng kiến thức hoặc các thông tin có thuộc tính giống nhau, hay tìm sự tương phản giữa các thông tin để biết rằng ta đang cần điều gì, cần phải xem xét kỹ những điều bất lợi, cũng như hữu ích trong từng thành phần để bắt đầu loại dần những gì không cần thiết.
  5. Tổng hợp và lại xem xét, đối chiếu trở lại, rà soát xem còn điều gì không phù hợp với định hướng mong muốn ban đầu. Và tiếp tục loại trừ hoặc đưa ra thêm những bổ sung cần thiết để vấn đề được sáng tỏ hơn
  6. Dự cảm rủi ro và những điều kiện phát triển tốt nhất cho kết quả tư duy quyết định
  7. Ra quyết định và đó cũng là kết quả đạt được của quá trình tư duy

Trong những trường hợp mà điều kiện thực tế, các dạng thông tin có lợi đã cùng thuộc tính, tính chất,… nằm khớp với các khuôn mẫu tư duy của ta, thì đó là lúc ta nên quyết định ngay không cần tuần tự theo các bước tư duy kể trên. Còn những người thích suy luận nên đôi khi đánh mất nhiều cơ hội nắm bắt thực tế hơn, vì họ luôn bị kiến thức và sự hiểu biết sẳn có chi phối, chúng như một đám mây mù che lấp khả năng phán đoán của họ. Nên chăng người ta quyết định sau khi suy nghĩ kỹ thì ít rủi ro hơn là quyết định không cần suy nghĩ, mà vẫn thành công thì đó là sai lầm. Đó là cách chọn lựa của mỗi người cho từng thời điểm biểu hiện tâm lý cá nhân sao cho thích hợp nhất, hay cho phù hợp với môi trường hoạt động bên ngoài. Với điều thứ nhất có thể dẫn đến sai lầm, còn đều thứ hai ít khi phải thất vọng vì các quyết định này thường đã được kiểm chứng bằng kinh nghiệm rồi.

Sở dĩ người ta đặt ra các bước tư duy bài bản như trên, vào đầu óc con người là vì thực tế cho thấy rằng, do những thói quen của các giác quan luôn bị nhìn ngắm, quan sát chi phối làm ảnh hưởng và phân tán hướng tư duy của chúng ta ra thành nhiều hướng, trong cùng một thời điểm cần thiết để tiếp cận vấn đề. Vì tư duy là một dạng năng lực quan trọng nhất của con người. Người ta càng tư duy càng sững sờ và ngạc nhiên vì nó luôn mở ra những cánh cửa mới và không bao giờ cạn, cũng như không bao giờ thỏa mãn với mình. Những ai cảm thấy bằng lòng với cách nghĩ của mình thì lúc đó là lúc tư duy bị ngừng lại và cuối cùng là bế tắc. Khi tư duy người ta thường để quên đi một phần “không tốt” của bản thân, những vấp ngã, thất bại, ngược lại họ luôn tư duy về mình trên những thành công tốt đẹp, vì thế lối tư duy này gọi là tư duy một chiều. Họ không hiểu rõ những thất bại, khó khăn của mình từ đâu ra để đi đến quyết định là chấp nhận hoàn cảnh hay tìm cách thay đổi nó. Rất ít những người thay đổi được tư duy, mà thay đổi được hoàn cảnh nhanh chóng ngay lập tức. Vì điều này luôn khó khăn hơn là điều ngược lại, và vì thế người ta tích cực làm việc cho điều thứ hai xảy ra và ít nhiều tinh thần con người cũng được cải thiện.

Khó khăn chính trong quá trình tư duy là sự rối loạn, những dữ liệu, thông tin, lý lẽ, định kiến, nguyên tắc, quy luật và cả nhu cầu làm mới trong cách nghĩ của mình nữa như là một sự sáng tạo chẳng hạn, hoặc do những định kiến cá nhân quá lớn khó làm cho người ta nhìn thấy một cái gì khác ngoài những nguyên tắc và mong muốn  của mình. Vì thế, tư duy theo hướng tự nhiên luôn dẫn tới rối loạn, hoặc không xét kỹ trong quá trình tư duy, để có thể đi đến một nhận thức đúng đắn của vấn đề. Người ta tư duy theo nghĩa thông thường, để giải quyết công việc lặt vặt trong cuộc sống, thì những dữ kiện và thông tin cần thiết luôn được trải trên bề mặt nhận thức của con người, một cách rõ ràng và chính xác, đồng thời đó luôn là những vấn đề được giới hạn bởi những yêu cầu khách quan, nên gần như mọi thứ đã được lập trình sẵn, chỉ cần ta bấm nút là xong. Sự việc này luôn khó khăn, là khi kết hợp làm việc với nhiều người, nhưng người ta không tập trung các hướng tư duy vào cùng một điểm, do đó cùng một vấn đề được đưa ra thảo luận, đối với người này thì đúng nhưng đối với người khác là sai. Sự không cùng cách nghĩ với nhau nên người ta thường đi đến một thỏa hiệp là trung hòa giữa những ý kiến khác nhau. Cuối cùng kết quả đạt được có thể thỏa mãn được đôi bên, nhưng về các giá trị thực của vấn đề đã bị hạn chế, hoặc trở nên sáng sủa rỏ ràng hơn nhờ có sự kiểm chứng từ nhiều phía rồi.

 Trong quá trình tư duy, khi người ta tư duy tự động xen kẽ với những hệ quả thông tin trừu tượng như triết học, nghệ thuật vv.. hoặc xem xét tâm lý cá nhân, và đó là cả một quá trình vận động của ý thức và tiềm thức, nơi cất giấu những hình ảnh lờ mờ và đầy xung động do ức chế, dồn nén tâm lý gây ra. Những loại tư duy này thường là do nhu cầu cá nhân, hơn là bị bắt buộc vào các hoạt động sống của con người. Vì thế, nó cũng không có sẵn những khuôn mẫu hoặc giới hạn nào, mà hầu như khi nằm trong tình trạng tư duy này, người ta thường đập phá những khuôn mẫu, bẻ gãy những giới hạn cũ hơn là đi theo những khuôn mẩu sẳn có, hoặc xây dựng nó thêm.

Trước khi đi vào hai dạng tư duy đó, chúng ta cần xem xét đến góc độ tâm lý muốn tự thể hiện mình, thông qua quá trình phản ứng nội tại của cảm xúc con người dẫn đến cách tư duy như thế nào?

Rất nhiều người thích tranh luận bởi vì họ cho phép mình được giải tỏa một nỗi hoài nghi về bản thân, hoặc để chứng tỏ mình có năng lực hiểu biết trên những lĩnh vực khác nhau nào đó. Đó là một nhu cầu chính đáng, nhưng đôi khi chưa đủ hiểu biết để khẳng định mình có được một quan niệm, thái độ sống rõ ràng, từ tư duy đi đến hành động và xa hơn là tính cách cũng như thái độ sống với bản thân và cộng đồng. Kết quả của quá trình đi lên, đi xuống này đều xuất phát từ nền tảng tâm lý cá nhân mà ra… Tại sao người ta lại thấy ngạc nhiên khi có nhiều chàng trai, cô gái con nhà giàu có, lại đi vào con đường nghiện ngập, xa đọa và dẫn tới kết cục bi thảm? Tại sao người ta muốn thể hiện mình bằng cách tách mình ra khỏi những truyền thống tốt đẹp, để dấn thân vào con đường nguy nan? Tại sao có những người hành hương về đất thánh bằng cách vừa bò, vừa lạy suốt một quãng đường dài hàng mấy ngàn cây số? Tại sao có những thanh niên lười nhác và ngã bệnh triền miên bắt người nhà, gia đình phục dịch cả chục năm trời.. Đó là những quan niệm cực đoan chứa đầy định kiến với đồng loại, từ đó biểu hiện sự phản kháng của mình như một cách sống, như sự đối mặt với cuộc đời mình trở nên kỳ quặc và khác lạ, so với sự vận động bình thường của cuộc sống. Những người này thường là do hiểu lầm giá trị sống đích thực, và là sản phẩm bị đào thải của gia đình và xã hội, đồng thời trong số họ cũng có người đạt tới thành công do biết cách thay đổi tư duy để phù hợp với điều kiện sống… Vì sinh tồn là phải biết cách thích nghi với cuộc sống, mới nói tới việc phát triển và trưởng thành, nhưng để thay đổi tư duy thường vẫn nảy sinh hai hướng: Thay đổi để phát triển hoặc thay đổi để tồn tại. Dù một người có tài năng đến đâu cũng không nắm lấy được cái đuôi của lý tưởng mà mình theo đuổi, mà chỉ thấy cái bóng dài của nó đổ xuống trên vách đá mà thôi, nơi họ đã bị xiềng xích trong cách tư duy của mình trong nhiều năm qua… Vì khi đánh giá lại toàn bộ giá trị của mình trong một giai đoạn nào đo, ta sẽ thấy rằng những ưu thế phải chiếm 50% trở lên thì sự thay đổi tiếp theo tất yếu là sự thay đổi để phát triển. Còn dưới 40% trở xuống thì có cố gắng mấy thì sự thay đổi cũng chỉ tạm ổn mà thôi. Vì như một kỹ sư, bác sỹ phải đi học lại những lớp tiểu học sẽ rất khó, khó là ở chỗ mình không đủ kiên nhẫn làm lại từ đầu, nhưng khi  họ tự đánh giá mình thật đúng rồi thì sự làm lại từ đầu sẽ trở nên dễ dàng. Điều này rất khó làm trong thời đại mà hệ tư tưởng chính luôn xoay vòng như một cái đu quay trong công viên, mọi thang giá trị luôn chuyển động liên tục mà con người thì luôn bị tác động bởi những hấp lực của môi trường xung quanh.

Để nói đến tư duy chiều sâu và tư duy bề mặt, là cách nói tương đối nhằm phân tích rõ ràng cho dễ hiểu khi xác nhận một đối tượng là hành động tư duy. Nhưng thực ra tư duy chỉ được thao tác trên bề mặt ý thức là chính, còn những phần chìm sâu ở phần tiềm thức, vô thức của con người là những tầng hoạt động không kiểm soát được. Những nhà văn thuộc vào loại tự động tâm linh thường thể hiện một bút pháp văn chương khó hiểu, khó cho người xem nắm bắt được những ý kiến của mình. Cách tư duy này ta có thể gọi là tư duy chiều sâu hay tư duy tự động (otomatic) thì cũng được.

Đầu óc con người thực ra như một cái máy tính vậy, khi luôn tư duy thì nó cũng sẽ tự động nâng cấp lên như người ta nâng cấp máy tính, hoặc bỏ đi để mua máy mới. Khi lượng dữ liệu quá lớn mà khả năng tư duy của con người có hạn, nó sẽ gây nên áp lực đối với người đó, những thông tin không phù hợp dù có tốt đến đâu cũng không thể chạy theo mãi những cánh bướm lập lòe nhiều màu sắc được. Người ta sẽ rất khổ sở, bất an, hoang mang khi trong đầu luôn đầy tràn những câu hỏi, những ánh chớp va chạm nhau nơi những tấm gương soi trong sự đối lập của tinh thần con người. Người ta tư duy trên bề mặt chưa xong mà lượng thông tin càng đổ vào nhiều  hơn, thì tất nhiên nó sẽ được nhồi nhét vào tiềm thức một cách vô tội vạ, và nó thường được chiếu lại xen kẽ trong giấc ngủ chập chờn của chúng ta, những hình ảnh đó được gọi là giấc mơ,…. Vì thế người ta nói “lao động là vinh quang” thì rất đúng, vì ngoài những kết quả đạt được trong công việc, tinh thần con người cũng được dở bỏ những phần kiến thức thừa thải, vì đã được dùng để xử lý công việc. Đồng thời nó cũng ngăn chặn quá trình phát sinh những tạp niệm mới, mà đó không hề là tiền đề để chúng ta tư duy một cách “hợp pháp”. Vì vậy theo dòng lịch sử, tư tưởng con người ra đời đồng thời với các thành tựu tri thức đã đạt được dựa trên cơ sở từ các thành quả lao động của con người. Cho nên triết học cũng bắt nguồn từ lao động, từ cuộc sống, và được con người áp dụng vào cuộc sống để cải tạo cuộc sống. Như triết học Trung Hoa, Phật giáo Ấn Độ, hay triết học Mác – Lê Nin chẳng hạn vv…

Ở mỗi người đều có những cường độ tư duy khác nhau, nhưng nói chung, ở cấp độ bình thường người ta tư duy trong một hệ thống giống nhau với những bài bản như phân tích, so sánh rồi tổng hợp. Ba vấn đề này là những điểm chính được phát triển liên tục trong một tầng tư duy là ý thức, nhưng tâm lý của con người đôi khi phức tạp là do một điểm nào đó trục trặc trong tiềm thức, hay nói khác hơn là đã từng có những biến cố như những cú sốc trong cuộc đời mình, vì thế con người thường có xu hướng tập trung lực lượng tư duy vào điểm đó, thành ra nó trở thành một nguồn vận động ẩn tàng bên trong không ngừng hoạt động, không ngừng đưa ra những câu hỏi những tiền đề, và ý thức lúc này phải tham gia vào để giải quyết. Điều này đôi khi rất có lợi khi định hướng tư duy tích cực, hoặc sẽ trở nên tai hại nếu định hướng sai lầm.

Sở dĩ có người có khả năng tư duy cao hơn người khác như các nhà nghiên cứu chẳng hạn, là vì họ được tập luyện từ nhỏ, sự thông minh chỉ chiếm một phần rất ít trong hành trình tiến lên của tư duy. Vì độ giao động và khả năng giải quyết vấn đề của não người là vô tận. Các thiên tài cũng chỉ như một người bình thường thôi, lúc còn nhỏ họ đã có thói quen tư duy trong bất cứ trường hợp nào, và nhu cầu muốn nạp thêm thông tin, kiến thức để họ có thể tư duy tiếp. Vì cái gì cũng từ việc nhỏ nhất, sơ đẳng nhất dần dần người ta mới tư duy lên cao. Học tập là định hướng tư duy cũng như có thêm kinh nghiệm, kiến thức mà thôi, và trong xu hướng đo, người ta tư duy mãi rồi đạt những thành tựu tốt đẹp và được gọi là thiên tài.

Khi con người khi tư duy ở bậc cao, người ta tư duy một cách khác thường, mạnh mẽ và độc đáo hơn người bình thường, họ sử dụng bộ não của mình rất triệt để, và vận động nó theo những nguyên tắc riêng, đôi khi lạ lùng mà những người bình thường không thể làm được.

Tư duy bề mặt(tư duy phân tích)

Người tư duy bề mặt là người có giao diện tư duy rộng trên bề mặt nhận thức, khi cần nhớ lại thì những thông tin, kiến thức, tín hiệu vẫn còn nằm trên đó, nên họ có khả năng nhận biết rất nhanh. Khác với loại tư duy chiều sâu, thường vận động ở tầng tiềm thức nhiều hơn, vì thế mọi vật liệu khi được nhúng vào tầng tư duy này đều có vẻ đổi màu và được sắp xếp xoay chuyển kích thước khác đi sao cho phù hợp với kích thước của tâm lý con người. Vì kích thước giao diện của tiềm thức bao giờ cũng nhỏ hơn kích thước giao diện của ý thức, và khi một thông tin được lọc qua tầng ý thức nó thường sạch sẽ và gọn gàng hơn, nên quá trình vận chuyển qua lại ở tầng ý thức và tiềm thức luôn được nhuộm màu từng phần của vấn đề, và do đó người ta có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau trong cùng một sự kiện, một thông tin được nhận biết.

Tầng tư duy bề mặt là nơi được ưu tiên nhất, có khả năng tương thích với các giác quan nhận biết như thị giác, xúc giác vv…Người nào có ý thức kém tới đâu thì khả năng nhận biết của thị giác, cũng hoạt động tốt như thường. Ở tầng ý thức do được nhiều ưu tiên hơn nên đối tượng mà nó cần biết luôn có khuynh hướng chiếm giữ chỗ này làm sân chơi cho riêng mình. Tư duy bề mặt là luôn luôn xử lý, sắp xếp và ra những mệnh lệnh cho các vấn đề mà nó đã tư duy thành hệ thống. Sau đó lưu lại, rồi tiếp tục tư duy, tiếp tục xắp xếp mọi vấn đề ở đây được gọn gàng, ngăn nắp hơn. Vì khả năng vận động ở tầng tư duy này rất cao, nên những người tư duy loại này rất năng động, và luôn thích ứng kịp thời với những tình huống xảy ra rất nhanh. Họ là những người hùng biện và sử dụng ngôn ngữ rất rõ ràng, mạch lạc chính xác, và đôi khi hoạt động như một cái máy. Tư duy bề mặt được phát triển lên đến đỉnh cao, thường có hệ thống như những bậc thang, và chính điều này ngăn trở những đột biến bất ngờ trong cách tư duy của họ như là một sự sáng tạo, Vì họ đã trở thành một người có hệ thống tư duy chắc chắn và khuôn khổ. Nhưng ở những trường hợp đặc biệt, có thể xảy ra khi tiềm thức bị tổn thương và đồng thời nó mở rộng cửa cho ý thức đổ vào “đầu tư” thì đó lại là một trường hợp khác. Họ sẽ trở nên sáng tạo lạ thường và đồng thời tập trung hướng tư duy vào đây để sửa chửa và lấp đi chỗ trống. Nhưng thật ra, những vấn đề của tiềm thức luôn vận động rất tự nhiên, vì thế ý thức có xen vào điều chỉnh mấy đi nữa thì nó bắt chước cũng rất chậm, nhưng nó có khả năng bắt chước những cái cùng thuộc tính với nó lại nhanh hơn, và để cân bằng tư duy thì hai loại tư duy này luôn phải tương trợ lẫn nhau để cân bằng, thì tinh thần con người sẽ trở nên ổn định, tốt hơn.

Tư duy bề mặt thường cho ra những kết quả rất sát với thực tế, nhưng khi ta nhìn kỹ hơn thì thực tế khách quan luôn biến động, mà tư duy của con người thì không. Nhưng trong một giới hạn nào đó, người ta luôn phải cần đến ý thức để phán xét những việc đã rõ ràng rồi. Ý thức luôn hiểu biết và rất khó dự đoán được những gì xa hơn tầng nhận biết “khách quan” của nó, vì thế lúc này là lúc nó cần giải quyết ở tầng tiềm thức một cách thoải mái hơn không phải quá gò bó nữa như ở tầng ý thức.

Tư duy bề mặt có sở trường là giỏi phân tích và liệt kê, sự so sánh trong trường hợp này đôi khi khập khiểng, vì nó vận động quá nhanh để nhận biết một ảnh  phản chiếu của nó, thông qua một tấm gương là tiềm thức, nên vấn đề so sánh ở đây chỉ mang tính hình thức, với dáng vẻ bên ngoài của vấn đề mà cấu trúc tinh thần của vấn đề đó đôi khi có khả năng xảy ra khác nhau nhưng nó bỏ qua luôn.

Tư duy bề mặt là loại tư duy thiên về ý thức, được trải trên một không gian hai chiều. Nó luôn cần biện chứng, chứng minh thông qua những thao tác và những kết quả của kinh nghiệm, và những nguyên tắc do nó thành lập từ đầu tới cuối, vì mọi việc đều được xảy ra rõ ràng ngoài ánh sáng nên khi đi đến kết luận thì cũng không khác mấy tiền đề lúc ban đầu. Tuy nhiên, kết quả mà nó thu được là tuyệt đối chính xác và khoa học, và có tính thuyết phục cao. Tư duy của người phương Tây đa số là loại tư duy này, và nếu để đo chỉ số IQ thì người ta cũng chỉ đo ở tầng tư duy này mà thôi, nên họ được gọi là giống người thông minh hơn những giống người khác.

     Tư duy chiều sâu (Tư duy tổng hợp)

Tư duy chiều sâu là quá trình vận động ở tầng tiềm thức của con người. Đó là những thông tin có tính chất trừu tượng, thường vẫn xảy ra ở tầng tư duy này. Vì tất cả các dạng thông tin, hình ảnh khi được chấp nhận lưu trữ và vận động tại đây, đều bị  bóp méo  hay nâng cấp cho đẹp hơn sự thật được quan sát. Như một không gian ba chiều, mọi hình ảnh đều được nhìn ngắm dưới nhiều góc độ, và khi vận động tư duy, thì nó sẽ thêm bớt sao cho phù hợp với những khuông mẩu tâm lý của con người, rồi mới lưu lại trong tiềm thức của chúng ta. Đó là kết quả của một quá trình tư duy gian khổ.

Người tư duy tự động ở tầng này luôn luôn chủ quan, họ quan sát thực tế một cách tổng quát, nhưng bù lại sự cảm nhận thực tế tốt hơn, và khi tư duy lên cao có thể dự cảm, dự đoán được tương lai dựa vào một số quy luật vận động của tâm lý, tri thức, tư tưởng của con người.

Tư duy ở tầng tiềm thức thường thu được hình ảnh ngược với lối tư duy ý thức, hay nói khác hơn, đó là một thế giới hình ảnh lộn ngược với thực tế, nhưng nó vẫn phản ánh được tính trung thực của thực tế, xét trên những nguyên tắc cơ bản của cấu tạo của vật chất. Nó mang tính chủ quan, nhưng theo những nhà siêu hình lý luận rằng: “Đó là hình ảnh phản ánh thực hơn cả những hình ảnh được nhận biết một cách khách quan”. Điều này đối với những thiên tài, những người có tư duy lớn nghe ra thì còn có thể tin được, nhưng với những người tập tành siêu thực, thì đó chỉ là sự hiểu biết chủ quan trong giới hạn cá nhân, hoặc do sự ảnh hưởng của thông tin bên ngoài mà các hình ảnh, dữ liệu đều “còn nguyên” ở tầng ý thức, nên đó chỉ là sự bắt chước siêu thực mà thôi. Vì quá trình tư duy của tiềm thức, là sự xáo trộn lầm lẫn, đúng sai, rất dễ mắc nhiều ngộ nhận và sai lầm hơn cả. Vì nơi đây thiếu hẳn một cơ chế kiểm duyệt thông qua kinh nghiệm như ở tầng ý thức, nên sự ảnh hưởng là tất yếu. Nó luôn thao tác trong môi trường tự do của cảm quan cá nhân, nên đa phần những sản phẩm được tạo ra ở đây, là vay mượn của người khác, hoặc không tư duy cho tới nơi tới chốn, vì nơi đây là bộ lọc tốt nhất để tư duy, để tinh thần con người tiến lên trở thành tư tưởng lớn, cũng như vướng nhiều ngộ nhận, hoang tưởng mà tâm lý con người cho phép chấp nhận, như một phần bôi trơn, cũng như xoa dịu những áp lực khủng khiếp mà đời sống tinh thần gây ra.

 Trong lịch sử có rất ít những thiên tài có thể vượt qua giới hạn tư duy này mà vẫn còn khẳng định được mình. Vì tư duy ở đây sẽ dẫn đến tình trạng bế tắc nhiều hơn là thông suốt như các vị Alahán được. Nếu không bế tắc, thì hướng tư duy cũng theo sự lý giải thỏa hiệp, và nảy sinh đời sống giải trí an nhàn, thụ động. Vì thế tư tưởng phương đông cổ xưa, thường ca ngợi cách sống này, và điều này chính là nơi giết chết những tài năng, đáng ra là phải tiến bộ hơn nữa. Những người sống trong tâm trạng này thường tư duy theo kiểu huề cả làng vì quá nhiều mệt mõi rồi.

Tư duy chiều sâu ở tầng tiềm thức là lối tư duy không đơn giản, nó phù hợp với những loại người rắc rối, sâu kín, bí hiểm và bản năng. Nhưng dù sao cũng không có gì là khó hiểu cả, vì xét trên nguyên tắc chuyển động trao đổi thông tin từ ý thức đến tiềm thức, là cả một cuộc tranh chấp lớn, giữa hai giá trị luôn cần phải xác định. Nhưng ngặt nỗi khả năng xử lý của ý thức còn chậm, nên yêu cầu này luôn bị hoãn lại, và từ đó sinh ra những phản ứng ngược lại với ý thức, người ta gọi đó là cách tự thể hiện mình. Đây là một cuộc chơi của tinh thần con người, mà phần thua luôn chiếm đa số. Những người có lối tư duy phê phán, phản kháng và tệ hơn là châm biếm, chế nhạo, thường ở luôn tại tầng tư duy này. Điều này đôi khi làm cho cách nghĩ của con người rất độc đáo và nhiều khi thâm thúy đến bất ngờ. Vì cách tư duy này không hẳn là ở sâu bên trong tiềm thức, hoặc ở ngoài ý thức, mà nó chỉ len lỏi đứng nép nơi cánh cửa thông qua ở hai tầng nhận thức này. Vì thế mọi sự vật ở đây đều được bóp méo do năng lượng tâm lý bị dồn nén gay ra, nó không thể hoàn tất một cú sáng tạo đích thực trong tâm thức của mình, và cũng không nhìn thấy thực tế rõ ràng bằng ý thức được, nên sự thật đã trở thành khôi hài khác thường. Vì những người mà cả cuộc đời cứ phải nhìn ngắm thiên hạ đi qua mắt mình một cách hài hước, họ không hiểu được mặt sau hay mặt trước của vấn đề, mà họ chỉ nhìn nghiêng một bên. Trong trường hợp này cũng sản sinh ra được những tài năng lớn cho nhân loại.

Tư duy chiều sâu ở tầng tiềm thức, là loại tư duy tự động, đồng thời về mặt ý thức vẫn hoạt động như thường không thể tách rời được. Khi so sánh hai loại tư duy này để ta nhận biết là có sự khác nhau như thế nào mà thôi. Có những người tư duy thiên về cảm tính nhiều hơn, và cũng có những người tư duy thuần túy là lý tính cũng vậy. Cả hai hướng tư duy nặng về lý tính hay cảm tính đều cho ra những kết quả không khách quan, và vướng vào nhiều định kiến cá nhân cực đoan. Vì vậy người ta mới áp dụng lối tư duy song song, hay là tư duy cân bằng theo những hệ thống giáo dục từ xưa đến nay theo kiểu bậc thang. Tuy nhiên, có những trường hợp cá biệt thì khó có thể học tập theo cách này được, vì khi ở một giới hạn cực đoan nào đó, thì tinh thần luôn phải khai phá, kích nổ rất mạnh vào tầng tiềm thức làm bật ra một giá trị mới, nhưng tiếp theo lại chạm đến những khuông mẩu sẳn có ở tầng ý thức, thì sự cực đoan giảm xuống và làm cho người ta có khả năng thích nghi. Từ đó chớp lóe lên cái gọi là ý tưởng sáng tạo. Cực đoan là một trạng thái không nên đề cao nhưng ở những giai đoạn tinh thần không có lối thoát thì cực đoan có thể gọi là “quyết tâm” một chút mà thôi. Người có kinh nghiệm giải quyết công việc thông qua kinh nghiệm cực đoan của tinh thần, thường không đủ sáng suốt nắm lấy những cơ hội khách quan của cuộc sống mang lại, và điều này có thành công bao giờ cũng do may rủi mà thôi. Vì trạng thái cực đoan luôn luôn xuất phát từ tâm lý cá nhân chủ quan, chứ không phải do nhu cầu cuộc sống sinh ra. Nếu trong những trường hợp môi trường sống cần đến sự cực đoan, thì nó luôn được dẫn chứng từ miệng những người ngụy biện. Cực đoan là sự bất an của tâm lý con người mà thôi, nên giải quyết việc gì trong giai đoạn này đều cũng không tốt.

Tư duy ở tầng tiềm thức, là cách tư duy sâu nhằm thỏa mãn tâm lý cá nhân, hơn là giải quyết công việc. Nếu ở người nào không biết lao động, không thích ứng nổi với đòi hỏi cuộc sống, thì nó cũng tự động tư duy theo hướng có lợi cho tinh thần mình.  Như sống ích kỷ, biện luận và thỏa hiệp với những đòi hỏi của bản thân. Vì nếu có sự đấu tranh giữa lý trí và tình cảm, thì những ham muốn về mặt tình cảm sẽ thắng theo kiểu người ta luôn thấy mình đúng. Vì phản lại điều này là phản lại những quyền lợi mà nó luôn ra sức bảo vệ, thường thì ít người có khả năng tư duy chiều sâu để thấu hiểu được mọi mặt, mà chỉ dừng lại trên những tranh chấp của tình cảm và lý trí thông thường, hoặc mất rất nhiều thời gian có khi cả cuộc đời chạy quanh những vấn đề vụn vặt của đời sống, riết rồi cũng thành thói quen và cũng trở thành thái độ sống của mình. Vì rất khó có thể thay thế những quyền lợi tinh thần đó được. Đây là hướng tư duy tai hại nhất thường rơi vào những người ít gặp những thử thách, trả giá cho cuộc đời mình. Nhưng rốt cuộc thì họ vẫn phải trả giá mà họ không hề có cơ hội để thử thách nữa. Nhưng ngược lại, nếu tư duy chiều sâu một cách kiên nhẫn từ từ lên cao, cũng như có được sự nhận thức sâu sắc, thấu hiểu thì những khó khăn, khổ sở sẽ được bù đắp.

Vì sự học tập để hoàn thiện kỷ năng sống là điều cơ bản nhất mà gia đình và xã hội đã giáo dục cho ta,  kế đến mới là trường học và sách vỡ, vì nó luôn định hướng sẵn cho ta, đi theo một con đường an toàn và phát triển tốt nhất nếu có thể, mặc dù có là thiên tài gì đi chăng nữa, thì cách tư duy của con người lúc lên năm, bảy tuổi cũng đều giống nhau, có khác nhau thì đó là do những đột biến trong cách tư duy mà thôi. Còn lại căn bản con người vẫn mơ ước được nhìn nhận như là một con người bình thường, người nào không có được điều này, chắc chắn sẽ không thể biết thêm một điều gì cả chứ đừng nói tới hai chữ “tài năng”. Vì điều này luôn phù hợp với bất cứ tài năng lớn cỡ nào cũng vậy. Vì tài năng sinh ra là nhằm để phục vụ con người, cho dù con người có thể hiểu lầm và bạc đãi tài năng, nhưng một tài năng thật sự thì không hề tính toán quá so đo trong cuộc sống làm gì.

Người tư duy ở tầng tiềm thức luôn có những kết quả tổng hợp sau khi đã tự động xử lý xong thông tin, và đó là một kết quả được chắt lọc qua nhiều lần biến dạng, và không còn hình thức nữa. Nó sẽ được nâng cấp lên như một quy định tất yếu cho những gì xảy ra, trong trường hợp đó, nó thường phản ánh ý nghĩa, nội dung một cách chính xác, hơn là những hiện tượng phát sinh xoay quanh vấn đề đó. Vì vậy những người thuộc tư duy loại này người ta gọi là tư duy tổng hợp, nếu tư duy lên cao thì lối tư duy của họ luôn gây bất ngờ với những người bình thường, nhưng thực ra cũng chẳng có gì lạ lùng cả, trong đời sống hiện đại ngày nay vì một đứa trẻ mười tuổi là nó đã bắt đầu chơi game và dần tiếp cận với internet. Nó buộc phải tư duy để đối phó với máy móc, các trò chơi mang tính trí tuệ, nó phải tư duy làm sao cho phù hợp với mong muốn của gia đình và khả năng tư duy tự do của nó, đồng thời tư duy theo định hướng giáo dục của nhà trường, xã hội vv…. Người ta tư duy mãi đến một lúc nào đó mà kiến thức hiểu biết trở nên một gánh nặng cho mình, một nguy cơ khủng khiếp mà không đủ mạnh có thể bị chữ nghĩa và kiến thức đè chết như chơi. Vì vậy, trong tiềm thức của nó phải vận động liên tục, ngấu nghiến nhằm tiêu hủy hết số lượng thông tin, kiến thức kia, và trực giác là một phép màu xử lý trong những vụ này, nó lóe sáng như một nhát gươm làm tiêu hủy hết mọi kiến thức hiểu biết của con người, và cuối cùng ý thức được tiếp nhận những hiểu biết mới trong suốt và đầy sức mạnh. Đó là sự giác ngộ của con người, và từ đó nó sẽ làm thay đổi thái độ sống của chúng ta luôn.

Khi con người đã có được một hiểu biết mới, thông qua quá trình tư duy khủng khiếp ở tầng tiềm thức. Ngoài những cái đã quên đi thì trong quá trình chiến đấu, nó đã tích lũy được khá nhiều kinh nghiệm, gọi là kinh nghiệm tâm lý. Điều này không phải là tri thức bình thường, và càng không thể gọi là kiến thức, hay là cái gì khác được, mà nó là những tầng sóng tâm lý mãnh liệt, nhưng bây giờ đã bắt đầu ngoan ngoãn nằm yên, như những con mãng xà hung dư, nay đã được khuất phục và tự do qua lại ở tầng tiềm thức và vô thức. Cư dân đầu tiên nơi tầng vô thức của con người mà ta có thể nhận biết được chính là con mãng xà này, đó chính là linh cảm bén nhạy mà ít ai có được, cũng như đó là trực giác mách bảo cho ta phải làm gì, khi tất cả hai tầng ý thức kia đã bó tay. Người có được trực giác trong hệ thống tinh thần của mình, thì như có được một lá bùa hộ mạng, người ta cứ tưởng rằng những thành công rực rỡ hay vượt qua những tai nạn bất ngờ đều do thượng đế giúp đỡ, nhưng thực ra điều đó đã được tạo ra trong quá trình tư duy ở tầng tiềm thức của chúng ta rồi. Và vì sao ta cảm thấy nó chớp lóe lên trong đầu một cách kỳ lạ, là vì nó bay một lèo từ tầng vô thức đi xuyên qua tiềm thức và đến ý thức của chúng ta như một tia chớp, chính bản thân người đón nhận nó còn hiểu lầm hay không thể hiểu nổi. Còn theo thuật ngữ thông thường thì được gọi là sự giác ngộ.

Tóm lại, tất cả mọi cách tư duy nếu có thể nhận biết được rỏ ràng, chính xác đều được xác nhận ở tầng ý thức, còn lại là dự cảm, dự báo, cảm thấy, linh tính… đều ở tầng tiềm thức. Những kinh văn trong cuốn Kinh Lăng Nghiêm, của Đức Phật giảng giải cho A Nan để phá chấp những điều hình thức của bên ngoài sự vật. Có nghĩa là lấy vô thức để loại trừ ý thức, lấy chủ thể phê phán khách thể, và cuối cùng đạt tới cảnh giới là không. Và chỉ có con đường này mới tiếp cận được tư tưởng Phật giáo, vì những điều được hiểu ở tầng ý thức thường làm cho chúng ta “khổ”, và con đường diệt khổ là con đường để tìm hiểu và diệt trừ ý thức, để nhìn thấy cái bản nguyên của sự vật tươi mới hơn, vốn không có quá nhiều những ràng buột, trói chặc con người với cuộc sống đã được quy định bởi những giá trị, giới hạn nhận biết của ý thức chúng ta.

 Cuối cùng có thể nói rằng tất cả các động thái chuyển dịch của tinh thần đều có thể gọi là tư duy, còn trực giác là một trạng thái tư duy đặc biệt của con người mà người ta hay hiểu lầm là do chúa trời ban cho.

Tư duy hòa hợp (Tư duy song song, hay tư duy 2 chiều)

Con người thông thường thì vẫn tư duy cân bằng với một chút tình cảm, tình yêu gia đình, bà con chòm xóm,… cộng với một chút lý tính, để điều khiển bản thân thích nghi với hoàn cảnh đó. Đối với cách tư duy này, ta có thể gọi là tư duy hòa hợp hay tư duy song song ở bậc thấp, những người tư duy cân bằng ở cấp độ này thường được hưởng thái bình và ít khi gặp bất trắc trong tinh thần cũng như trong cuộc sống.

Người ta tư duy một cách ổn định được như thế và dần nâng cao tới mức bác học, thì chỉ có một con đường duy nhất là tư duy theo lối bậc thang. Điều này rất quan trọng, vì người đó luôn được sống trong một môi trường giáo dục ổn định. Từ nền tảng gia đình mà bố mẹ là những trí thức, giáo dục có hệ thống nhưng không ấu trĩ, lạc hậu mà luôn cập nhật kiến thức, nâng cấp theo những thay đổi tiến bộ của thời đại, có nghĩa là phải cải cách giáo dục liên tục trong một thời kỳ tiến bộ liên tục như hiện nay.

Giáo dục sai lầm là không theo kịp thời đại, và không nghiên cứu các thuộc tính tư duy căn bản của con người, mà người ta chỉ đặt những khuôn mẫu, mô hình có sẵn như lập trình cho một số đông học tập theo một tiêu chuẩn nào đó. Đó là những phương pháp giáo dục theo nghĩa ý thức, chứ chưa nói đến vấn đề giáo dục đạo đức, nhân sinh và xã hội. Điều này nếu không thích hợp thì tất nhiên tiềm thức của học sinh sẽ được bù đắp bởi một nguồn khác ngoài giáo dục ra. Và hậu quả dẫn đến là có những người, có tài nhưng quan niệm hoàn toàn sai lầm về những chuẩn mực đạo đức làm người.

Tư duy cân bằng theo hệ thống từ thấp lên cao, là phải có quy trình và phác đồ tiến bộ của mỗi cá nhân. Ta thấy rằng căn bản của tri thức con người trước tiên là phải biết về lịch sử, lịch sử của các ngành liên quan, và phải hiểu thật sâu sắc lịch sử chuyên môn của mình. Kế đến là kiến thức căn bản của nhân loại, rồi cập nhật kiến thức của thời kỳ mình đang sống, cuối cùng nếu có thể thì mới nghiên cứu triết học. Tùy từng trình độ nhận thức và tư duy của mỗi người, mà trang bị những điều căn bản này, trong những giai đoạn phát triển tinh thần, sao cho thích hợp nhất. Chắc chắn người đó sẽ đạt được những thành tựu lớn trong tư duy của mình, mà không phải trả giá cho những ngộ nhận đáng tiếc, hoặc những rối loạn tư duy khi nền tảng kiến thức không vững vàng. Có nhiều người học sai quy trình này, và tư duy cẩu thả, nên dẫn đến quan niệm cực đoan và tiêu cực, do không đủ mạnh để vượt qua, đôi khi họ hóa điên hoặc qua đời một cách đáng thương. Đó là vấn đề mà xã hội quan tâm trong giáo dục, nhưng đồng thời vì giáo dục quá khắt khe, gò bó trong những khuôn mẫu chật hẹp, nên vô tình làm lụi tàn biết bao tài năng thực sự. Đây là mặt trái của giáo dục mà ngày nay xã hội đang lên án. Vì thế chúng ta nên xem xét, nghiên cứu nghiêm túc những vấn đề tư duy của con người để áp dụng vào giáo dục.

Trong môi trường giáo dục nói chung, người ta luôn hướng tới một cách giáo dục tư duy hòa hợp, giữa lý tính và cảm tính, nhưng trừ những trường hợp cá biệt thì rất khó tiếp thu những bài học theo dạng này. Vì những trường hợp tư duy cá biệt, thường là không cân bằng, vì nó có những phần nghiêng về tư duy trừu tượng ở tầng tiềm thức phát triển hơn, từ đó định hướng nhận thức thông qua tầng ý thức bị sai lệch, hoặc khác biệt với cái nhìn của mọi người thông thường của nhiều người, như nhìn qua một chiếc gương mờ do tác động phản hồi của năng lượng tâm lý sinh ra từ tiềm thức bị xáo trộn. Đa số những người xem việc học hành của nhà trường là gánh nặng, là khổ nạn như vác thập giá, là những người bị trục trặc ở phần tiềm thức của họ, dù cho có phát triển theo hướng tốt đẹp hay không, thì cách tiếp thu bài tập của họ cũng khác bình thường. Họ chỉ có thể hiểu, và cảm thấy thích hợp với những loại thông tin mang tính biểu tượng, trừu tượng hơn còn những loại thông tin mang tính đơn giản như số lượng, mô tả, hình dung bên ngoài của sự vật, Và khi tiềm thức tiếp nhận thì nó sẽ làm biến dạng không như hình ảnh, chỉ số, số lượng ban đầu của vấn đề, nên tự động tiềm thức sẽ đẩy ra vì không thích hợp. Vì như đã nói ở trên, nơi tiềm thức không có một bộ lọc thông tin như ý thức, mà nó là một cái máy nghiền hỗn hợp mọi chất liệu, từ đó ta nhận thấy tư duy theo kiểu tiềm thức là rất mệt và nguy hiểm, thậm chí thiếu khoa học và cho ra những kết quả khác hẳn với hình dáng, kích thước ban đầu.

Tư duy hòa hợp là chủ động tư duy có chắt lọc thông tin, từ khi mới tiếp nhận ở tầng ý thức, và từ đó chuyển qua phần tiềm thức những thứ cần thiết theo định hướng tư duy ban đầu. Song kết quả thu được ở phần ý thức là kết quả biện chứng tốt nhất, khoa học, sáng sủa và có thể áp dụng để giải quyết vấn đề cuộc sống, còn lại kết quả thu được ở tầng tiềm thức, thì để đấy dùng trong những vấn đề dự báo rủi ro, đánh giá khả năng của các vấn đề mà nó đã từng tư duy, vậy thôi. Những ông thầy bói, những kẻ hay phán trên trời dưới đất là những người luôn dùng những kết quả thu được ở tầng tiềm thức để hù dọa, phán xét người khác cũng như dự báo những gì sắp xẩy ra. Những hình ảnh, thông tin không rỏ ràng, mà chỉ là những quy tắc phản hồi của tiềm thức lên tầng ý thức, nên nó không có hình dạng đễ nắm bắt được. Không cần biện chứng, chứng minh gì cả nên khó thuyết phục. Nhưng có thể những điều đó đúng với dự cảm lòng tin của người nghe, một lần, hai lần, quá lắm là đến lần thứ ba, thì người ta sẽ tin ngay. Vì thế mà sinh ra những tệ nạn bịp bợm đầy mưu toan trục lợi cá nhân.

Người có hệ tư duy cân bằng và mạnh mẽ khác thường cả phần tiềm thức và ý thức, là người tài năng xuất sắc, những người này, từ nhỏ họ đã có thiên hướng tư duy sáng sủa, rõ ràng và mạnh mẽ, vì nền tảng tâm lý vững chắc. Họ là những người dự cảm tốt, và nhanh chóng đề ra những quyết định, để giải quyết vấn đề một cách tốt nhất. Cách tư duy này luôn tránh được những sai lầm theo lối tư duy một chiều thường bảo thủ và cực đoan. Vì xét cho cùng, những giới hạn đạo đức bình thường để xét ở góc độ tư duy ở phần tiềm thức, thì nó không mấy ràng buộc như những quan niệm đã có sẵn của truyền thống vv…. Tư duy là mổ xẻ vấn đề, đánh giá, cân nhắc và làm sao biến một vấn đề cũ, khớp với những khuôn mẫu mới của xu hướng tư duy thời đại mà mình đang sống. Vì thế, những biến đổi này, luôn bị người đời hiểu lầm, và vội vàng kết tội lối tư duy cân bằng, thường là luôn có những tiền đề thích hợp rồi thì nó mới tư duy được. Tiền đề sao thì kết đề như vậy, nhưng kết quả đạt được ở mức độ cao hơn rất nhiều, nhưng về sáng tạo thì nó không mạnh bằng lối tư duy tiềm thức. Vì tư duy theo cách này, có thể làm biến đổi hình dạng của vấn đề và thông thường người ta khó nhận ra ngay.

Bill Gates là một thiên tài mẫu mực cho lối tư duy hòa hợp ở mức độ bác học. Ông ta được đánh giá là nhà viết phần mềm tầm cỡ thế giới nhưng chưa bao giờ lọt vào tốp mười người xuất sắt nhất thế giới, vậy mà ông ta đã nắm trong tay mình một đế chế công nghệ thông tin bao trùm cả hành tinh,

Những người có tư duy hòa hợp thường là những người lãnh đạo tối cao, những người tư duy lý tính xuất sắc là những vị tướng tài giỏi trăm trận trăm thắng, những người tư duy chiều sâu là những mưu thần uyên bác, nếu chịu lắng nghe những chỉ dẫn của họ thì người khác có thể làm nên nghiệp lớn.

Tóm lại tư duy theo kiểu nào thì cũng có cái hay, cái dở của nó. Ví dụ tư duy chiều sâu là tư duy sáng tạo rất dễ dàng, nhưng rất phiêu lưu và khó thuyết phục. Tư duy lý tính thì luôn giải quyết được mọi vấn đề bên ngoài, nhưng đồng thời tính sáng tạo chỉ dừng ở mức so sánh hiện thực, cực thực là cùng. Vì sự xuyên thấu qua tầng tiềm thức không được, nên những hệ ý thức, như siêu thực, trừu tượng, họ không thể nào tiếp cận được, cho dù có làm được cũng là sự bắt chước, sao chép, ngộ nhận hay lắp ghép của người khác mà thôi.

Những người tư duy hòa hợp có khả năng giải quyết hết những việc này, với kết quả tốt nhất nhưng không gây bất ngờ lớn, vì đó không phải là mục tiêu của họ. Vì thế ai muốn yên thân và thành công sớm, thì nên hướng cách tư duy của mình vào lối tư duy này, chắc hẳn cuộc đời sẽ bình yên và gặp nhiều may mắn.

Tư duy hòa hợp thường tập trung ở người khôn ngoan bẩm sinh, họ là những người tài giỏi, nhưng không mấy tài hoa. Họ là người mà thượng đế chỉ định để nhận biết người tài hay thiên tài gì đó. Chỉ có những người này mới đủ khôn ngoan và hiểu biết để thẩm định tài năng của người tài. Vì họ luôn là những người công bằng và rộng lượng ở mức cần thiết. Nguyễn Huy Thiệp và Hồ Anh Thái là loại người này. Chính họ là những người thẩm định và hiểu thấu tài năng của người khác, nhưng Nguyễn Huy Thiệp thì kính trọng tài năng cá nhân hơn, còn Hồ Anh Thái thì quý trọng tài năng của một thế hệ trẻ đang sục sôi nhiệt huyết tìm kiếm những cái mới trên con đường sáng tạo.

Thông thường để luyện tập được lối tư duy hòa hợp, người ta thường cố gắng học tập từ những gì mình thiếu, và làm việc hay sáng tác thì làm những gì mình tin chắc là mình có, thì mới làm. Vì trước tiên phải xác định rõ được điều này, mới có thể tư duy hòa hợp được. Bằng không là ngộ nhận dài dài, hở đầu thừa đuôi và cứ phải loanh quanh mãi nơi vũng lầy tư duy. Vì tư duy là thuộc tính để định giá một con người. Trong thời đại ngày nay tư duy hòa hợp khác với tư duy thỏa hiệp, vì đó là hướng tư duy mở và tiến bộ hơn. Xét về tư duy hòa hợp, bằng cách nhìn thực tiễn của thời đại thì biết ngay. Vì con người ngày nay hiểu biết hơn ngày xưa rất nhiều. Ngày nay, mô hình lãnh đạo của một nhà nước dân chủ, thường là người ta bầu những nhà lãnh đạo chủ chốt có tư duy hòa hợp. Họ có khả năng giải quyết mọi vấn đề một cách song song và công bằng nhất. Những tỉnh trưởng chưa có công trạng gì lớn cũng có thể được bầu làm tổng thống, để lãnh đạo đất nước, còn những người thủ lĩnh của các cuộc cách mạng, hay các tướng lĩnh quân sự suất sắc thường là bị gạt sang một bên. Điều này rất dễ hiểu, vì điều đó không dựa vào công trạng, thành tích, mà  dựa vào thực tế đòi hỏi của bối cảnh xã hội mới, phải cần tài năng của một người lãnh đạo như thế nào thì thích hợp. Những vị anh hùng thường được ca tụng thông qua những giấc mơ buồn của những người yếu đuối. Nhưng thực tế những người này luôn là những người mắc nhiều sai lầm nhất, cực đoan nhất và đáng phê phán nhất. Họ là những người cực đoan nên trong thời đại ngày nay không thể lãnh đạo tối cao được. Nếu dân trí của đất nước đó có thể hiểu biết để định giá tư duy của con người.

Tư duy hòa hợp hay còn gọi là tư duy song song, hai chiều, là cách tư duy của những bậc thang đi đến thành công. Người nào ý thức được mình sinh ra may mắn có được cách tư duy này, thì nên cố gắng học tập quên mình, để sẵn sàng làm người lãnh đạo, tuy nhiên cũng cần phải có phẩm chất đạo đức tốt. Vì đó là điều rất quan trọng để hòa hợp, làm việc với cộng đồng cũng như sự tin cậy của mọi người.

Tư duy một chiều

Những người có lối tư duy một chiều thường nhìn cuộc sống khác đi, và tự cho mình có thể trở thành một nghệ sỹ lớn, hay một nhà lãnh đạo một cách rất dễ dàng, thông qua những suy luận một chiều của mình. Nhưng con người sinh ra về bản chất thì không hề muốn cố gắng làm một nghệ sỹ lớn, hay giành quyền lãnh đạo người khác. Mà là sự thấu hiểu bản thân mình, số mệnh luôn công bằng và bắt anh phải trả giá cho những mong ước đó bằng sự nổ lực không ngừng của bản thân, đôi khi có cả những nguy hiểm.

 Tư duy một chiều là lối tư duy cục bộ, hẹp hòi và nhiều cực đoan hơn cả. Vì càng tư duy nó càng giới hạn, và chỉ lý luận loanh quanh trên những định đề có sẵn, nó sẵn sàng đánh đổ mọi thứ, để bảo vệ một chiều tư duy, mà nó đã xác định ngay từ đầu. Lối tư duy này luôn khớp với những người có tư duy bề mặt bằng lý tính thuần túy, hay tư duy tự động theo cảm tính. Rất ít người tư duy một chiều mà thoát ra được cực đoan, cũng như nâng cấp trình độ tư duy của mình lên cao hơn. Đa phần là chỉ loanh quanh cãi vả với những thứ lặt vặt, và xem đó là điều kiện để tư duy. Vì nó thiếu hẳn yếu tố trung tâm bền vững. Và từ đó sinh ra lối tư duy cực đoan, gàn bướng và hẹp hòi. Những người tư duy một chiều thường nhìn người khác không tốt theo ý mình. Vì họ luôn hiểu lầm cách tư duy của mình là trung tâm, là đúng. Điều này rất tai hại, vì nó càng củng cố cao hơn cho cách tư duy một chiều sai lầm cố định của mình. Tuy nhiên đa phần những nghệ sỹ đều lý luận và tư duy theo lối một chiều. Đó là một bí mật đáng buồn cho những người làm nghệ thuật. Vì có tư duy như vậy mới nhìn ra cái đẹp, vì cái đẹp rất hiếm hoi trong cái nhìn bao quát, tổng hòa trước cuộc sống của con người. Cái đẹp là cái chênh vênh nhất, mong manh nhất, nằm khuất trong sâu kín tâm lý con người. Nhưng do chủ quan trong cách đánh giá cái đẹp, người ta thường nhầm lẫn giữa cái đẹp tự nhiên thuần tính, với cái đẹp đã được lý luận hóa, biện chứng hóa, được xây dựng thành cái đẹp kiểu mẫu điển hình. Nên tư duy một chiều cũng chưa chắc là đã nhận ra được cái đẹp thật sự của nó. Nói chung ở cái nhìn thông thường thì điều này rất khó nhận ra.

Tuy nhiên tư duy một chiều nâng lên tới giới hạn cao, thì có thể biến tinh thần con người thành người khổng lồ, có thể công phá, đập vỡ những bức tường định kiến cố hửu lỗi thời, để tinh thần con người có thể vượt qua. Tư duy một chiều luôn ẩn tàng trong đầu óc của những người tư duy hòa hợp. Nhưng đối với những người này, họ chỉ sài nó như một phương tiện, một con dao nhỏ mà thôi, còn mọi vấn đề đều cân bằng được. Người tư duy một chiều mãi sẽ rất nguy hiểm, vì suốt đời cứ phải cầm búa đi đập phá, phản kháng với cuộc sống mãi. Nếu có đủ sáng suốt và nền tảng tri thức vững chắc thì họ là những người sáng tạo không mệt mỏi, đồng thời cũng rất dốt nát trong những lĩnh vực khác. Vì vô tình tư duy mãi theo lối này, nên họ cũng bị mù đi mất một con mắt, để tồn tại họ đâm ra liều mạng luôn.

Những người tư duy một chiều, nếu cuộc sống không ưu đãi lắm, hoặc khả năng điều chỉnh tinh thần không tốt, dễ sinh ra tư duy phê phán, theo hướng tiêu cực hẹp hòi. Tư duy một chiều luôn bóp méo sự thật một cách cố ý bằng tiềm thức, mà ý thức còn hênh hoang biện hộ cho nó nữa. Ý thức lúc này đáng ra là một quan tòa, là người kiểm duyệt tất cả những sản phẩm được xuất kho từ tiềm thức, nhưng nay lại đồng lõa với nó, đồng thời trở thành người phát ngôn cho nó, nó tư duy thế nào thì ý thức phát biểu như thế. Vì nơi đây ý thức không được coi trọng nữa, đồng thời tư duy một chiều theo kiểu lý tính thì sẽ trở nên duy lý khô khan và máy móc.

Người tư duy một chiều, luôn khó khăn vận dụng những hiểu biết của mình vào cuộc sống. Vì cuộc sống là thực tế khách quan, luôn luôn cần sự xác nhận tổng hòa từ nhiều phía, từ mọi nguồn kiến thức, để phản biện cho một ý kiến mới, hay một quan niệm mới nào đó. Vì thế lối tư duy một chiều không thể kéo dài mãi cả đời được, mà nó phải được thay đổi sang tư duy hòa hợp, để thích ứng với từng giai đoạn phát triển của tinh thần, và biến động của xã hội. Theo như ta đã được biết, trong một thời kỳ lịch sử có nhiều biến động thời sự như chiến tranh liên miên, con người lưu lạc tha phương, thì đó là thời đại của những anh hùng tư duy một chiều có việc để làm. Và tâm lý con người trở nên u uất, đồng thời những tài năng nghệ thuật cũng như chiến đấu được phát huy.

Nghệ thuật là để lãng quên và xoa dịu nỗi đau, còn người ta tập hợp dưới ngọn cờ chiến đấu, là đi theo một điều cũng không kém lãng mạn như nghệ thuật. Đó là lý tưởng, người ta chết vì lý tưởng với những hiểu biết sơ đẳng về nó nhiều hơn là biết rõ cuộc chiến tranh này mình sẽ được gì. Vì thế trong thời đại ngày nay người ta sống theo lối sống công nghiệp chỉ để lao động sáng tạo, phát minh phục vụ cuộc sống. Vì ngày nay là thời đại hòa bình, người ta không buồn vì hoàn cảnh nữa, mà chỉ buồn do những ảo tưởng của mình dựng nên. Cho nên, tư duy một chiều để giải quyết cực đoan giả tạo của lịch sử là điều không hợp thời, thay đổi tư duy theo hướng hòa hợp trong thời kỳ này, sẽ có lợi cho cuộc sống cạnh tranh của chúng ta hơn.

Tư duy một chiều bằng ý thức, là hướng tư duy lý tính khô khan, trong quá trình tiếp nhận thông tin, và đúc kết thành các sự kiện, nó luôn luôn tìm cách chứng minh, biện chứng sao cho vấn đề được nhìn thấy rõ ràng nhất. Nhưng sự thật thì mọi thứ được xảy ra ở đây đều đã rõ ràng rồi mà các loại thông tin sự kiện này chưa được sắp xếp ngăn nắp mà thôi. Quá trình tư duy của ý thức, là quá trình  loại bỏ những gì không cần thiết ngay từ đầu, hoặc bộ nhớ bị quá tải, thì nó cũng tự động không thể tiếp nhận thêm. Tư duy một chiều theo hướng ý thức thường dẫn đến bế tắc, vì lúc nào nó cũng phân tích, chứng minh và cố moi móc, lục lọi trong khả năng xáo trộn của vấn đề ra so sánh rồi sắp xếp lại, nhưng khả năng tư duy “chính xác” kiểu này của đầu óc con người là hữu hạn, mà bản chất, thuộc tính, và các hiện tượng dễ nhầm lẫn, có thể phát sinh của vấn đề là vô hạn? Con người thì cứ tư duy, nhưng thượng đế thì cười khẩy là vậy. Vì ở những tương quan lớn do sự biến dạng của vật chất, mà mắt thường cũng như ý thức con người không thể phát hiện ra, cho nên lúc này cần phải được tư duy một chiều ở phần tiềm thức, vì các vấn đề ở đây đều được xây dựng theo những khuôn mẫu sẳn có của tâm lý, mà những khuông mẩu đó lại rất nhỏ để chứa được những kết quả rất lớn, đó là những vấn đề mang tính trừu tượng.

Vì thế lúc này vấn đề cần phải được tư duy trừu tượng, có nghĩa là nó cần tư duy ở tầng tiềm thức. Ở tầng tiềm thức người ta tư duy theo kiểu một chiều, có thể đi xa hơn lối tư duy hòa hợp một chút, nhưng cuối cùng cũng dẫn tới bế tắc. Duy chỉ có những người hiểu biết về các quy luật của triết học, thì người ta có thể nhận biết nguyên nhân bế tắc nằm ở đâu. Vì không có gì vận động mà không theo đúng quy luật này. Tư duy trừu tượng cho phép đặt ra những tiền đề ảo, những lối chứng minh đảo ngược, để cuối cùng tìm ra khả năng chứng minh vấn đề đó là khả quan, mà thuộc tính của nó đang vận động theo chiều hướng chấp nhận được mà thôi. Sau đó người ta nghiên cứu thêm ở tầng ý thức, và tìm cách chứng minh tư duy ở tầng tiềm thức, với những vấn đề phức tạp. Vì quá trình xác nhận của ý thức đến với nó thường bị từ chối,và không đủ ngôn ngữ để bảo vệ cho những kết quả kia. Trừ khi điều này thuộc về những người không sáng suốt, thì họ sẵn sàng bảo vệ những quan điểm, những kết quả mà bản thân mình chưa tin chắc là đúng đến cùng.

Trong ngành thiên văn học và vật lý lý thuyết hiện đại, người ta thường áp dụng lối tư duy trừu tượng, để phát hiện những yếu tố khả quan của quá trình khám phá vật chất tiếp theo (ở đây không có nghĩa là theo con đường tình cảm để áp đặt cảm nhận chủ quan của chúng ta lên sự vật, đào sâu vào vật chất để đi đến kết luận như các nghệ sỹ thiên về cảm tính, hay các thiền sư có thể nhìn ngọn gió, cỏ cây để phát hiện ra cả vũ trụ bao la hấp dẫn,…). Và để chứng minh theo hướng tư duy mở rộng nào đó, những phát hiện của khoa học vẫn chưa tìm ra cái để so sánh, vì thế người ta đặt ra những tiền đề ảo, gọi là hạt ảo, rồi có khối lượng âm vv Vì trong một tương quan lớn của vũ trụ, nó lớn gấp tỷ lần tương quan ý thức của con người và các con số toán học thông thường, nên người ta có cách tính của người ngoài trái đất. Đó là dựa trên những suy luận của triết học mà thôi, thỉnh thoảng mới có điều kiện để chứng minh.

Vì thế tư duy một chiều dưới cái nhìn thông thường, thì có hại nhiều hơn có lợi, và nó thường thỏa mãn ở những mức độ giới hạn hiểm nguy mà nó sinh ra. Khi tư duy kiểu này thường dẫn tới bi kịch và bế tắc, vì nó thiếu đi sự so sánh, đối chiếu, điều này không thể đổ thừa cho số phận mình bi kịch được, mà đó là kết quả của lối tư duy của ta mà ra. Thái độ sống và cách luôn bảo vệ mình, với những bằng chứng không thuyết phục ở tầng ý thức. Nhưng trong tình yêu và những say mê đời thường, thì nó không cần phải tư duy, suy xét nhiều quá, điều này sẽ làm mất hứng thú vị yêu đương, và say mê đời sống. Những người thành công, tư duy lúc nào cũng sáng suốt, quyết định ngon lành, cân bằng các yếu tố không theo kiểu cố chấp một chiều, thì có thể họ không hưởng được mùi vị của sự mù quáng mà tình yêu mang lại, có khi còn được dựng thành phim, viết thành sách. Người ta gọi đó là nghệ thuật.

Tư duy một chiều thường cho phép mình thỏa mãn những thói quen tư duy thích hợp với mình, để khỏi bất an, xáo động trong tinh thần. Những người tư duy mãi theo một chiều, là những người lười tư duy chứ không phải tư duy liên tục mà đã giỏi. Vì thế có những người thành công rất lớn là bởi vì họ tư duy có phương pháp, và chủ động tư duy. Còn những người tư duy một đời, mà vẫn thất bại rồi cuối cùng đi câu cá, là vì họ chiều chuộng cách tư duy của mình mãi theo một kiểu một chiều không thay đổi. Vì bản chất của một người có khả năng tư duy mạnh mẽ, là họ phải vượt qua những định kiến, tình cảm cá nhân mình. Một dân tộc muốn phát triển phải tư duy vượt qua những khuôn mẫu truyền thống văn hóa lỗi thời, thì dân tộc đó mới phát triển được. Như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc và Thái Lan chẳng hạn. Một dân tộc, một xã hội mà nơi đó những tư tưởng tiến bộ, đổi mới mà bị vùi dập, bị lên án là dấu hiệu của sự tha hóa của tri thức con người, là dấu hiệu lụn bại, thụt lùi. Lịch sử đã bao nhiêu lần phải cay đắng ghi lại những trang sử này, cũng do sự đố kỵ, bảo thủ của con người. Vì thế đừng quá câu nệ những tiểu tiết tình cảm nhỏ bé, khi cần thiết phải tư duy những vấn đề lớn mang tính chiến lược của thời đại.

Tư duy phê phán­

Tư duy phê phán là một loại tư duy biện chứng, chứng minh chặt chẽ, và thuyết phục để phê phán những điểm yếu kém trong quan niệm của người khác, hoặc của truyền thống văn hóa như những hủ tục ma chay, cưới hỏi, không hợp thời thế, hoặc phê phán những quan điểm, quan niệm sống sai lầm nào đó, so với truyền thống văn hóa tốt đẹp, hoặc phê phán lối tư duy tiêu cực, thiếu khoa học, thiếu yếu tố tích cực, để phát triển, tiến bộ. Song tư duy phê phán dù tốt hay xấu, có được hưởng ứng, công nhận hay không, thì bao giờ nó cũng mang mầm mống chủ quan. Điều này luôn xuất phát từ tâm lý phản kháng của cá nhân, hoặc tâm lý phản kháng của cả một thế hệ, đứng trước những vận hội lớn của đất nước sẽ phải thay đổi, đổi mới để tiến bộ, phát triển hơn, hoặc một lớp người bảo thủ luôn luôn nảy sinh tâm lý phê phán những điều gì mà quan điểm bảo thủ của họ không phù hợp, hoặc của những người tài giỏi xuất sắc phê phán những điều ấu trĩ, chậm chạp, hoặc của những người yếu kém bất đắc chí, lạc hậu, phê phán tất cả mọi thứ, mọi loại giá trị trên đời bằng một lối tư duy phê phán một chiều đầy chủ quan, bế tắc.

Tư duy phê phán, thường phát triển cực thịnh ở những bối cảnh lịch sử có những biến động lớn về văn hóa, khoa học, và nhất là sự thay đổi về thái độ sống của con người, trong một thời kỳ mới.

Trong giai đoạn quá độ chuyển tiếp từ chế độ cũ, với một truyền thống dày đặc lễ nghi khăn gói, sang một thời kỳ mới. Ví dụ như chế độ phong kiến, chuyển qua chế độ tư sản, thì trong bối cảnh đó, luôn nảy sinh hai luồng tư duy đối kháng nhau, từ hai hệ ý thức khác nhau là điều dễ hiểu. Những người chủ trương canh tân, đổi mới, phát động phong trào kêu gọi học tập lao động, và sống theo ý thức mới, văn hóa mới, rộng thoáng và cởi trói cho con người nhiều ràng buộc hơn, phát triển hơn, đồng thời lấy những luận chứng khoa học, thành tựu tốt đẹp của cái mới để chứng minh, phê phán cái cũ, phê phán những quan niệm ấu trĩ không hợp thời, sẽ làm chậm sự tiến bộ, mà theo họ là tất yếu. Ngược lại, những người thuộc hệ ý thức cũ, họ không thể chấp nhận được những quan điểm gọi là “tiến bộ” khi nó đi ngược lại quyền lợi tinh thần của họ được. Vì họ là những người đã được học tập từ nền giáo dục củ, cũng như những ràng buộc của các mối quan hệ xã hội, giai cấp, tri thức đã ăn sâu vào tâm thức của họ rồi, họ không thể thay đổi được. Từ đó họ nảy sinh lối tư duy phê phán triệt để. Nhưng trong lối tư duy này nếu càng yếu thế, nó càng phê phán mạnh hơn, mù quáng hơn nữa. Vì như đã nói, tư duy phê phán luôn bắt đầu từ cách tư duy chủ quan cá nhân một chiều của con người. Trong đó quá trình đối kháng giữa hai lối tư duy này, người ta không thể lấy những dẫn chứng xa vời như kiến thức, tri thức hay nền tảng đạo đức truyền thống để chứng minh và phê phán được, nói khác hơn là không có phản biện để rút ra kết luận bên nào đúng bên nào sai. Vì cả hai đều có lý luận riêng, có cơ sở dẫn chứng để chứng minh, để phê phán. Nếu có thể thì chỉ dẫn chứng lịch sử, và từ trong lịch sử người ta không thể đi ngược lại những tiến bộ của lịch sư, mà những quy luật của nó đã được xác định rõ trong lịch sử rồi. Chỉ những kẻ nào thực sự kém hiểu biết và cố chấp, mới vượt qua những điều này. Tuy nhiên đổi mới hay làm cách mạng thì chưa chắc đã đúng, đã tiến bộ, điều này lịch sử cũng đã từng được xác nhận cho những sai lầm như cách mạng văn hóa, hoặc cải cách ruộng đất, tịch thu tài sản của những nhà kinh doanh vv… Từ đó nguồn thu nhập dựa vào chất xám bị mất đi, mà nguồn thu nhập dựa vào cơ bắp không thể bù đắp nổi, nên đã gây ra một giai đoạn thất bại của lịch sử.

Tư duy phê phán thường xuất phát từ tâm lý chủ quan phê phán mà hình thành, vì sự vận động của tư duy, là quá trình điều tiết trong một tương quan so sánh thích hợp với những nhu cầu hiện tại của hoàn cảnh, và những đòi hỏi của chính nó. Khi người ta so sánh giữa những tiêu chuẩn quá lớn, để phê phán những việc nhỏ trong những hoàn cảnh thực tế chưa cho phép, thì lối phê phán đó trở nên thái quá, khập khiểng. Người sáng suốt là nhận định đúng điều kiện, hoàn cảnh để phê phán đúng lúc, đúng chỗ, thường thì sự phê phán đó sẽ khả quan. Nhưng ngược lại phê phán để thỏa mãn ước muốn phản kháng trong tâm lý cá nhân, thì khó có khả năng thay đổi được vấn đề, mà còn tạo ra một không khí đối nghịch không cần thiết. Những người bảo thủ thường hay phê phán người khác theo những quan điểm của mình, và đồng thời bảo vệ những quan điểm của mình đến cùng. Nếu bị người khác phê phán lại. Những kẻ bảo thủ này mà nắm trong tay nhiều quyền lực, và nhất quyết bảo vệ quan điểm lập trường lạc hậu của mình, thì nhất định sẽ đem đến nhiều nguy hại cho những quyền lợi chung, cũng như bóp nghẹt sự tiến bộ của của xã hội.

Ngày nay sự chênh lệch của nhiều hệ ý thức rất lớn, do đó nảy sinh nhiều lối tư duy phê phán khác nhau, nhằm công kích quan điểm của người khác, đồng thời bảo vệ quan điểm của chính mình. Trong sự tranh giành những biên giới đó đôi khi không được rõ ràng, và người ta thường bị ngã theo xu hướng an toàn ít rủi ro nhất. Đó là những người không có quan điểm rõ ràng, cụ thể, hoặc không tin tưởng vào quan điểm của mình. Lúc này là lúc những yêu cầu thực tế sẽ làm trọng tài phân xử những tranh cãi này. Vì sự vận động của đời sống xã hội của con người luôn khách quan, mà những nhu cầu cần đáp ứng cho nó là thiết thực, cần thiết cho sự tồn tại và phát triển. Bởi vì quy luật phát triển của xã hội đời sống con người là luôn đi lên, dù chậm hay nhanh thì cũng không thể dừng lại được.

Tư duy phê phán luôn có trong mỗi cá nhân thời hiện đại, vì nó là động lực thúc đẩy quá trình sắp xếp những thông tin, kiến thức cũ, lỗi thời, mà mỗi cá nhân đã nhận ra để loại trừ và tiếp nhận những thông tin kiến thức mới. Trong quá trình loại trừ lẫn nhau trong tinh thần con người, luôn nảy sinh xu hướng phê phán những điều không phù hợp với mình, với nhu cầu, quyền lợi, và ước muốn của mình. Để thỏa mãn nhu cầu tâm lý cá nhân, người ta ít khi chấp nhận những điều đi ngược lại những quyền lợi mà tâm lý mình bảo vệ, nên có nhiều trường hợp, tư  duy phê phán đến mức triệt để, và mù quáng, đó là lối tư duy bế tắc. Còn tư duy phê phán để tiến bộ, để tiếp nhận những cái mới, vào thêm cái kho lưu trữ của mình, thì bao giờ sự phê phán cũng chừng mực, và phù hợp với hoàn cảnh hơn. Người có tư duy phê phán cực đoan, luôn tranh thủ những dẫn chứng nguyên nhân sai sót nhỏ, để chứng minh và phê phán đến cùng, họ thường không quan tâm đến mục đích phê phán của mình mà phê phán như một thói quen, một phản xạ nhằm phản ứng lại với những quan điểm tiến bộ, cũng như lạc hậu của người khác, từ đó xoa dịu nỗi bất an của mình. Trên con đường phê phán đó, họ có thể moi móc, đào xới bất kể điều gì, để đem ra đối chất và phê phán. Vì phê phán chủ quan và hòng thỏa mãn tâm lý ức chế, nên điều này chỉ là sự phê phán một chiều, mà sự thất bại luôn đứng về phía người phê phán là điều tất nhiên.

Tuy nhiên, trong lịch sử đã có những người để bảo vệ chân lý của mình là đúng, họ đã sống hết mình và đã chết cho quan điểm đó. Vì họ tin rằng những phát biểu của họ sẽ được thừa nhận trong tương lai Vì đó là tri thức của con người, nếu người ta dễ dàng bỏ qua những định kiến vụn vặt để biết cách tiếp cận nó. Họ không phê phán ai, nhưng cách bảo vệ mù quáng của họ vào điều họ tin tưởng, thì đồng thời, đó cũng là một sự phê phán đanh thép rồi. Bruno và Galilê hai nhà thiên văn học người Ý, đã từ chối lẽ sống tầm thường để bảo vệ chân lý của mình, là mặt trời sẽ quay và trái đất quay quanh mặt trời. Như ta đã biết trước giai đoạn phục hưng, lịch sử phương Tây chìm trong ngàn năm tăm tối của hệ thống tư duy giáo điều, bảo thủ của thời kỳ trung cổ.

Người có tâm lý phê phán suốt đời, là những người đáng thương, vì đó là một tâm lý không thỏa mãn với bản thân và họ luôn có những vấn đề để giải quyết, nhưng không bằng cách thấu hiểu mà bằng cách phê phán. Thiên tài của phong trào này là nhà văn Vũ Trọng Phụng, phê phán tới mức chế nhạo và công kích bằng sự hài hước cay độc. Mặc dù ông là một tài năng lớn nhưng công bằng mà nói ông vẫn là một con người bảo thủ và phê phán mù quáng, vì không thích nghi được những tiến bộ mà thời đại tất yếu phải xảy ra.

Khi xã hội đang tiếp nhận một nguồn thông tin quá lớn, phản ánh những đổi thay về cách sống của con người, thì xã hội đó có nguy cơ rối loạn về các hệ tư duy, cũng như các thang giá trị của đời sống. Khi con người choáng ngợp trước sự giao thoa của nhiều tầng văn hóa, của sức nặng kiến thức mới vô tình phá vỡ những cấu trúc tư duy thông thường. Vì vậy, con người có phản ứng co lại để bảo vệ mình như một cách phản kháng, phê phán sự hòa hợp này, và người ta đưa ra những khẩu hiệu buồn cười như “Hòa hợp nhưng không hòa tan” vv…. Nếu như ta đã biết, một nền văn hóa tâm linh của một dân tộc đủ mạnh, thì rất khó bôi xóa nó được, cho dù dân tộc đó có bị xóa tên trên bản đồ thế giới, thì ảnh hưởng của vùng đất văn hóa tâm linh, tín ngưỡng đó vẫn còn. Điều này trong lịch sử đã từng ghi nhận. Có những cuộc xâm lược mang màu sắc khai hóa, và cũng có những người thắng trận cai trị những người bại trận. Nhưng cuối cùng thì họ cũng bị nền văn hóa bản địa đồng hóa lại…? Dân tộc Trung Hoa là một điển hình, vì tất cả các tôn giáo, văn hóa tư tưởng, văn minh của con người du nhập vào đất nước này đều phải thay đổi sao cho phù hợp với nền văn hóa tư tưởng của nó, thành một nước Trung Hoa mới, nhưng không bị lai căng như những nước có nền văn hóa tư tưởng nhỏ bé…Vì vậy muốn thay đổi mà còn luyến tiếc quá nhiều thì điều đó rất khó có được kết quả tốt đẹp. Và nhờ sự giao thoa của nhiều tầng văn hóa, nên nó làm tương phản, và tôn trọng lẫn nhau, trong một khu vực văn hóa chung, như văn hóa khu vực Asean chẳng hạn. Các nước ở đây đều có những đặc điểm văn hóa tương đồng, chứ văn hóa đã đủ mạnh rồi thì chắc chắn sẽ không mất đi, không bị hòa tan. Còn ngược lại, nếu cố giữ những cái không hợp thời, không theo sự tiến bộ của nhân loại thì không có ích gì, vì trước sau nó cũng bị bôi xóa, hoặc biến dạng thành một loại văn hóa lai căng khác. Khi biết những điều này không thể tránh khỏi thì chúng ta phải dũng cảm chấp nhận sự thay đổi để vươn lên.

Ngày nay có những diễn đàn trực tuyến trên internet, mà người ta tha hồ phê phán, chửi bới, cũng như công kích nhau chỉ vì quá ức chế với những quan điểm rối loạn và sai lầm của mình. Vì thời đại ngày nay, là thời đại rối loạn thông tin ở những dân tộc, mà nền dân trí còn thấp, nền giáo dục lạc hậu, cơ cấu chính trị xã hội đơn giản và bảo thủ, thì ảnh hưởng của nền kinh tế thông tin tri thức, sẽ đánh phủ đầu dân tộc đó, nếu họ cứ chần chừ mãi mà không chịu thay đổi cho nhanh. Điều này dẫn đến hai con đường là: Sự rối loạn có kiểm soát, và sự bùng nổ không thể kiểm soát nổi, khi người ta định hướng cải cách sai lầm. Do đó, dù sao cũng là một xã hội rối loạn về mặt thông tin cũng như tinh thần con người. Vì vậy người ta nói thời đại ngày nay là thời đại phê phán lẫn nhau nhiều hơn, là đồng ý với nhau để đi trên một con đường tiến bộ, thịnh vượng chung. Và đó cũng là một kiểu văn hóa mới.

Tư duy tiêu cực và tư duy tích cực

Tư duy tiêu cực gồm các loại tư duy chủ quan, thái quá không kiểm soát, mà chiều hướng tư duy không tiến bộ, và có khuynh hướng đi vào bế tắc, tư duy sai lầm ngộ nhận với thực tế cuộc sống. Tư duy sai lầm thường khó nhận ra vì nó luôn được bảo vệ bằng các giá trị chủ quan “ đúng đắn” của tinh thần con người.

Tư duy tiêu cực gồm các loại tư duy như thỏa hiệp, vì sợ đụng chạm trong quá trình đấu tranh để tìm ra lẽ phải, tư duy một chiều chỉ chấp nhận những điều phù hợp với bản thân mình, mà gạt tất cả các lý lẽ khác sang một bên, tư duy tự do không xác định mục tiêu của vấn đề, từ đó nhầm lẫn các giá trị của các hiện tượng và mục đích. Cuối cùng là đi tới sự kết luận không phù hợp với thực tế khách quan, hoặc yêu cầu của công việc nghiên cứu .

Trong quá trình vận động tư duy của con người, thường nảy sinh khuynh hướng tư duy tiêu cực vì đó là điều tự nhiên, như giai đoạn hoài nghi, thỏa hiệp và cực đoan. Điều này là do tâm thức con người, luôn bị chi phối quá nhiều bởi tâm lý cá nhân chủ quan, hay sự bất an, mà dẫn đến tư duy đối lập, rồi đối kháng lẫn nhau với thực tế. Tuy rằng đến một thời điểm nào đo, người ta sẽ thay đổi, vì lúc đó họ đã tư duy theo cùng một hướng khả quan, phù hợp với quy luật vận động của tư tưởng thời đại. Khi đó được gọi là tư duy tích cực.

Tư duy tiêu cực là nhu cầu thỏa mãn bản thân, với những quan điểm “tích cực” mà cá nhân đó nhận thấy cần thiết, và ra sức bảo vệ. Tư duy tiêu cực của một người nào đó rất dễ nhận biết, là khi họ tư duy không đổi mới nữa, không sáng tạo nữa, nhưng tinh thần vẫn chưa hình thành tư tưởng, mà họ cứ tư duy bình thường theo lối vòng vòng, đầy phê phán và oán trách. Lúc này cái nhìn cuộc sống của họ cũng u ám và đầy hoài nghi, từ đó tìm cách bảo vệ cho nó là sự biện luận không thuyết phục, như dùng những lý lẽ, quy luật lớn lao để bảo vệ những hiện tượng nhỏ nhặt, bình thường, từ đó ta nhận thấy họ tư duy tiêu cực và sắp sửa bế tắc. Tư duy tiêu cực thường kéo theo một hệ lụy khó khăn trong tinh thần, cũng như trong cuộc sống. Vì nó chỉ thỏa mãn được một mặt nào đó thôi và ra sức bênh vực cho nó. Tư duy tiêu cực thường phát sinh ở những loại người thiếu lao động chân thành, kém quan sát, và không có lập trường nhất quán, định hướng tương lai rõ ràng.

Khi người ta hoạt động theo một thói quen nào đó, mà những cơ chế sinh học thuộc bản năng sai khiến không kiểm soát được, thì đồng thời mọi cách tư duy trong giai đoạn này đều bị ảnh hưởng, và dẫn đến lối tư duy một chiều tiêu cực. Để nhận biết quá trình tư duy của mình có tiêu cực hay không, thì ta thường thấy nảy sinh hai khuynh hướng, phản kháng đối lập lại tư duy truyên thống của nhiều người. Đó là phản kháng lại những tác động bên ngoài, nhằm bảo vệ lối tư duy tiêu cực này, bảo vệ những lối mòn, thói quen mà mình đã vô tình cùng chung sống với nó trong một thời gian dài rồi, nên bây giờ không thay đổi được. Ngược lại ở những người có ý thức về hướng tư duy tiêu cực của mình, thì họ tự phản kháng với mình, và tự mâu thuẫn mình, thông qua sự đấu tranh giữa những quan điểm cũ, và những ý tưởng mới, rồi quyết tâm đi đến sự hiểu biết thông suốt. Để đạt được điều này, người ta luôn tích cực học tập, trao dồi và lắng nghe, để cố gắng thay đổi thói quen tư duy tiêu cực cố hữu của mình, với lòng tin tưởng và sáng suốt nhất. Ngoài ra còn có những trường hợp vội vã, cạn nghĩ và không thấu hiểu được bản thân mình, thì sự thay đổi theo kiểu bốc đồng, chạy theo bên ngoài và trở thành biến thái kỳ dị khó coi. Điều này dễ biết nhất là việc làm của họ không có kết quả hoàn hảo và không thấu đáo chân thành.

Ngược lại hướng tư duy tiêu cực là tư duy tích cực, có tính gợi mở và không cố chấp, vì thông qua tranh luận để nhận biết người nào có tư duy tích cực hay không, là khi họ vận dụng kiến thức, và hiểu biết của mình để tranh luận để sáng tỏ vấn đề hơn. Hay tìm những điểm tương đồng trong các ý kiến khác nhau, và đưa đến kết luận ở giới hạn nào đó có thể chấp nhận được, có thể áp dụng được ở mức tốt nhất. Còn những người tư duy tiêu cực thì luôn luôn tranh cãi gây gắt, và cố gắng chứng minh quan điểm của mình là đúng, với những dẫn chứng đôi khi không cùng thuộc tính với tiền đề của vấn đề tranh luận, mà họ không hề biết. Tư duy tiêu cực luôn luôn bị hạn chế do cách đánh giá chủ quan, và rất khó có cơ sở chứng minh một cách khách quan, với người khác được. Tư duy tiêu cực dễ làm chậm trễ sự tiến bộ trong tư duy con người, đồng thời nếu ai ý thức được hướng tư duy này là tiêu cực, thì sự thay đổi sau đó sẽ rất tốt đẹp, và có nhiều kinh nghiệm cũng như tự rút ra những bài học cho mình. Từ giới hạn tư duy tiêu cực bảo thủ một chiều, mà người ta phấn đấu để có được tư duy tích cực, là cả một quá trình vận động tư duy gian khổ, nhiều khi phải trả giá cho những thất bại cay đắng thì người ta mới hiểu ra. Tư duy tích cực là hướng tư duy hòa hợp hai chiều, trước tiên phải chấp nhận những yếu kém của mình, mà bù đắp trong một thời gian dài với lòng nhẫn nhịn và cố gắng, sau đó, khi đã dần hiểu ra, thì mới đặt cho mình những mục tiêu gần nhất để phấn đấu. Từ đó sẽ nâng cao hơn với những mục tiêu lớn hơn, dần dần sẽ thoát được hướng tư duy tiêu cực.

Tư duy tiêu cực là không phù hợp với những yêu cầu thực tế, mà nó luôn tìm cách biện hộ và phản lại những yêu cầu này. Cho dù anh là thiên tài đi nữa, thì anh cũng phải sống như một con người, cũng ăn uống đi đứng và làm việc, cũng cư xử và tôn trọng mọi người như nhau. Vì tài năng càng lớn nó càng phải hiểu rõ nhất những điều này. Tư duy tích cực luôn nâng cao con người, và mới có được tài năng. Vì thế một tài năng đích thực luôn là điều khó khăn trong thời buổi bây giờ, vì thời đại này là thời đại rối ren, và bao giờ cũng đánh giá sai lầm về nhân cách cũng như tài năng đích thực của con người.

Người tư duy tích cực là biết định hướng tư duy của mình ngay từ đầu, với những định hướng lớn của cuộc đời. Là người biết xác định lẽ sống và phấn đấu cho mục đích đó. Họ phải luôn luôn suy xét và tìm xem trong suy nghĩ của mình có điều gì không hợp lý với lý tưởng của mình, và đồng thời điều chỉnh mọi biểu hiện tình cảm, quan hệ cuộc sống, công việc sao cho nó là lựa chọn tốt nhất, có lợi nhất cho nhu cầu đó. Vì vậy tư duy tích cực bao giờ cũng khó khăn như một cách để tự giáo dục mình, khi gia đình và xã hội đôi khi cũng chưa đủ điều kiện để bù đắp cho ta.

Để điều chỉnh theo hướng tư duy tích cực, người ta phải cần có những bài tập nhỏ nhất, như cố gắng làm một việc gì đó, suy nghĩ thực tế về nó một cách nghiêm túc, cũng như đánh lạc hướng tư duy tiêu cực của mình đi. Phải lạc quan và hết lòng say mê công việc. Đừng quá tính toán so kè, vì lợi ích trước mắt, không thể bằng lợi ích lâu dài là mình đã hiểu ra nhiều vấn đề, mà bấy lâu nay người khác có tận tình chỉ bảo, mình vẫn không nhận ra.

Tư duy tích cực là quá trình vận động tư duy ở tiềm thức, trong một thời gian dài để sàng lọc, lựa chọn và nhìn ngắm nhiều phía từng vấn đề một. Tư duy ở đây là không phải bóp méo hình ảnh của vấn đề, theo chiều hướng thỏa mãn tâm lý cá nhân, mà cố gắng nhìn ngắm nó bằng tinh thần lạc quan cầu tiến, đồng thời phải nhìn ngắm vấn đề ở góc độ sáng sủa nhất, tiến bộ và đẹp nhất, hòng thấu hiểu và vượt qua giới hạn khó khăn này. Tư duy tích cực luôn luôn dựa vào những tiêu chuẩn mà ý thức ta đánh giá là đúng, làm định hướng cho hành động, cho ta đạt được những kết quả thông qua lao động chân thành, để lý giải cho cách tư duy gọi là“tích cực” của ta, đồng thời luôn đề ra những tiêu chuẩn hành động tiếp theo. Có như vậy tinh thần con người ngày một khả quan hơn.

Để hòa hợp với cuộc sống, con người luôn vận động trên tất cả các mặt hiểu biết của mình, và nhất là trong cách tư duy, tư duy tích cực hay tiêu cực chỉ là cách đánh giá tương đối, trên một trục xác định là độ thích ứng với cuộc sống mà thôi. Vì không ai có thể xa rời cuộc sống mà sống được, cho dù cuộc sống có nhiều sai lầm và thiển cận. Mặt khác người ta cố gắng thích ứng với cuộc sống bằng cách dán sát mình với nó, với những hoạt động bình thường hàng ngày mãi… thì chưa chắc ai đã suy nghĩ lên cao hơn được. Và điều đó có thể xảy ra khi người ta tư duy ở bậc cao, thì cuộc sống rất khó khăn vây quanh với những điều nhỏ nhặt, mà họ ít khi nhận biết để giải quyết nó.

Tư duy tích cực là tư duy mở ra hướng nhận định những mục tiêu lớn của cuộc đời là tư duy tiến bộ không bảo thủ, thỏa hiệp, và luôn luôn vận động tư duy lên tầng cao hơn.

Tư duy ứng dụng và tư duy nghiên cứu

Tư duy ứng dụng, là một loại tư duy trên bề mặt ý thức thông qua những kết quả nghiên cứu, để đi đến triển khai trong từng trường hợp ứng dụng tốt nhất. Tư duy ứng dụng là ứng dụng những phương pháp tư duy tối ưu, như phân tích, liệt kê, sắp xếp và nắm bắt vấn đề một cách nhanh chóng, đồng thời đưa ra những quyết định kịp thời cũng như những dự báo rủi ro có thể xảy ra. Tư duy ứng dụng bình thường, người ta sẽ tập trung tư duy vào một điểm, để giải quyết vấn đề đó, trong một giới hạn theo yêu cầu khách quan của vấn đề, của công việc. Xong, và hướng tư duy theo mục tiêu tiếp theo. Trong các cuộc họp người ta thường áp dụng phương pháp này để tập trung sức mạnh tư duy của tập thể, và không sợ bị lạc hướng tư duy. Người chủ trì cuộc họp, sẽ đưa ra vấn đề để thảo luận, và giới hạn sự phân tích, tranh luận, trong một yêu cầu nhất định theo tinh thần của cuộc họp đó, với những vấn đề và mục đích rỏ ràng. Song khi mọi người đã phân tích, phán đoán và liệt kê hệ thống những yếu tố cấu thành của vấn đề, được rõ ràng sáng tỏ, thì người chủ trì cuộc họp quyết định theo tinh thần của số đông, mà nó cũng phù hợp với kết luận của mình. Nếu vấn đề còn bàn cãi, mà chưa giải quyết xong, chưa nhất trí với giải pháp tốt nhất cho công việc, thì người điều hành cuộc họp sẽ khuyến khích mọi người tìm xem ở cách đặt vấn đề, và định hướng tư duy trong cuộc họp, có gì sai sót và không hợp lý. Và từ đó họ sẽ kiểm tra lại tất cả các tiền đề, các điều kiện được đặt ra cho tiến trình tư duy của tập thể, có thể giải quyết rõ ràng hơn, và có kết luận tốt nhất.

Tư duy ứng dụng của tập thể hay cá nhân đều cần có tài liệu kiến thức làm nền tảng. Đối với cá nhân, thì đó là sự hiểu biết sâu sắc mọi lĩnh vực trên một mặt bằng kiến thức nhất định, mới ứng dụng được. Chứ không cần quá sâu sắc một vấn đề nào đó mà thiếu hụt đi một số kiến thức cơ bản. Để định hướng tư duy ứng dụng vào thực tế, người ta thường so sánh, đối chiếu giữa các thông tin kiến thức, mà mình đã xác định là đáng tin cậy nhất, tốt nhất, xong rồi mới tìm cách làm sáng tỏ vấn đề, trong một điều kiện ứng dụng khả quan nhất đã được tìm ra. Để đi đến kết luận cuối cùng, người ta thường tìm ra nhiều giải pháp để so sánh, và rút ra kết luận cuối cùng, có tính thực tiễn nhất, và khách quan nhất. Kết luận này sẽ không bị ảnh hưởng quá nhiều với định kiến cá nhân, cũng như thói quen dễ chấp nhận của những lối tư duy một chiều.

Tư duy ứng dụng là quá trình vận động, thao tác, sắp xếp hoặc loại bỏ, những yếu tố không cần thiết của vấn đề, trên bề mặt ý thức một cách nhanh chóng và rõ ràng. Vì nó không thể ảnh hưởng bởi những tình cảm chủ quan, mà có thể giải quyết công việc theo hướng phù hợp với các yếu tố khách quan được. Vì nhu cầu của công việc là nhu cầu khách quan, đồng thời còn là cách giải quyết theo hệ thống, từ đơn giản tới phức tạp, từ tập thể đến từng cá nhân.

Tư duy ứng dụng rất phù hợp để lắp ráp trong một dây chuyền công nghiệp, một cách logic và khoa học chuyên nghiệp. Mỗi cá nhân là một nhân tố cấu thành của hệ thống. Vì thế nó đòi hỏi tính rõ ràng, nhanh chóng, và tuân thủ các điều kiện làm việc một cách gần như tuyệt đối, để không bị ảnh hưởng đến sự vận hành chung của hệ thống.

Tư duy ứng dụng, là biết loại trừ những yếu tố không cần thiết, có thể làm cản trở quá trình thích ứng, mà người ta áp dụng phương pháp mà mình lựa chọn vào công việc. Trước tiên phải tập trung hướng tư duy vào một mục tiêu gần nhất để giải quyết,  từ từ lấy đó làm tiền đề để giải quyết các mục tiêu tiếp theo, và cuối cùng là giải quyết hết những mục tiêu nhỏ để đạt được mục tiêu lớn. Tư duy ứng dụng là hạn chế rủi ro trong quá trình giải quyết vấn đề đến mức thấp nhất, đồng thời bảo đảm đạt được kết quả cao nhất, trong sự lựa chọn tốt nhất của mình.

Để có thể tư duy ứng dụng được như đã nói ở trên, người ta đều phải cần có nền tảng kiến thức, kinh nghiệm, như là một quá trình tư duy nghiên cứu của bản thân. Vì vậy tư duy ứng dụng là cách tư duy làm sao để áp dụng được những kết quả của tư duy nghiên cứu được tốt nhất. Tư duy ứng dụng không bao giờ tách rời được với tư duy nghiên cứu, vì đó là hướng tư duy chuyên sâu quan trọng nhất. Nó bảo đảm cho những kết quả ứng dụng được tốt nhất trong công việc.

 Tư duy nghiên cứu là một loại tư duy căn bản của con người, nó đòi hỏi con người luôn quan tâm đến mọi lĩnh vực của cuộc sống, với một niềm đam mê lớn lao. Tư duy nghiên cứu còn phù hợp với những người có khuynh hướng tư duy lên cao, tư duy sáng tạo, và không ngừng học hỏi. Dù cho ở một giới hạn nào đó, người ta đều không xem như một kết quả cuối cùng, mà chỉ là tiền đề cho hướng tư duy rộng mở của mình, vận động theo hướng tích cực và tiến bộ hơn.

Người có tư duy nghiên cứu, được làm việc trong một môi trường phù hợp với khả năng tư duy của mình, là những nhà nghiên cứu chuyên nghiệp. Nhưng cũng có những người với lòng say mê tìm hiểu thế giới quan rộng mơ, họ luôn tìm mọi cách để nghiên cứu những lĩnh vực mà mình quan tâm, cho dù trong đơn độc. Ngày nay những trường hợp này rất hiếm hoi, vì mọi tiến bộ của nhân loại, người ta đã nhận thức rõ rằng, đó là do công sức của tập thể, và những cá nhân xuất sắc đã sáng tạo ra, nhưng không một ai có thể một mình nghiên cứu tới kết quả tốt nhất, mà theo kịp đòi hỏi của thời đại. Vì thế những tổ chức chính trị, tài chính, và các tập đoàn xuyên quốc gia, hoạt động trong các ngành công nghệ cao, họ thường đầu tư tốt nhất cho các nhà nghiên cứu, có đủ điều kiện làm việc, học tập, nghiên cứu. Những nhà nghiên cứu và sáng tạo này, người ta gọi là “những thiểu số làm thay đổi thế giới”. Trong một xã hội công bằng và văn minh, những người lãnh đạo đất nước luôn ý thức rằng tìm kiếm tài năng thực sự, là điều quan tâm hàng đầu, để bổ sung vào nguồn lực phát triển của đất nước đó. Nhân tài là nguyên khí quốc gia, nếu quốc gia nào nguyên khí không thịnh, hoặc bị lãng quên thì đất nước đó đang hồi suy vong và băng hoại.

Ngày nay, những giá trị thật sự, đều được xác định trên những cơ sở nghiên cứu và ứng dụng thành công, và một phần nào đó người ta đánh giá chất lượng con người, cũng trên thang đánh giá này. Vì họ có nhiều đóng góp lớn cho cộng đồng, xã hội. Ở một số nước văn minh, người dân đã ý thức và đóng thuế cho nhà nước, để đầu tư vào lĩnh vực con người nghiên cứu và sáng tạo. Vì những thành quả đạt được cho xã hội hoàn toàn phụ thuộc vào cách đầu tư này, không mang tính lệ thuộc quá nhiều vào kiểu quan niệm “sống lâu lên lão làng” như ở nước ta lâu nay.

Tư duy nghiên cứu luôn tạo ra một bước nhảy vọt trong tư duy, sau mỗi lần bế tắc, động cơ thúc đẩy khả năng nghiên cứu thấu hiểu của con người là nhu cầu bên trong, nhưng đồng thời cũng cần đến các điều kiện, tiện nghi cho việc nghiên cứu được chuyên nghiệp, chuyên sâu tốt hơn.

Tư duy nghiên cứu là quá trình tư duy từ thấp lên cao, như những bậc thang, từ những quy luật vận động của tri thức, nơi cất giữ và xác nhận đúng hay sai nó luôn nằm ở phần tiềm thức. Khác với tư duy thông thường, ý thức luôn là yếu tố quyết định cuối cùng, còn tư duy theo hướng nghiên cứu thì ý thức chỉ đóng vai trò khảo sát, kiểm tra dữ liệu, hoặc chứng minh tất cả những điều đó, chỉ là các bước cần có cho quá trình tổng hợp, và quyết định theo những quy luật của tri thức, được tổng kết nơi tầng tiềm thức, và cho ra kết quả nghiên cứu cuối cùng. Vì vậy chúng ta đã từng thấy các nhà báo, có thể bẻ cong cây bút để trở thành các tên “bồi bút”, phục vụ lợi ích cho bản thân, thậm chí bán nước và chấp nhận sống như một tên nô lệ để được sung sướng, vinh thân. Còn những nhà khoa học, các nhà nghiên cứu chân chính, đôi khi ý thức mách bảo rằng phải nhượng bộ để sống yên ổn, nhưng thâm tâm họ luôn cắn rứt vì những điều họ nghĩ , họ làm là đúng theo nguyên tắc, quy luật của triết học và nó đã ăn sâu vào tiềm thức, vào con người họ rồi, nên họ không thể nào nói khác được, làm khác được. Những người tài hoa, nhạy cảm và có tri thức hơn người , xưa nay đều dính vào bi kịch, thường bị sự “hiểu lầm” và bạc đãi của con người, do họ không thức thời… Điều này, ngày nay rất ít xảy ra, vì ở các nước văn minh người ta rất quý và tạo mọi điều kiện cho các nhà nghiên cứu làm việc.

Tư duy nghiên cứu luôn có trong mỗi con người, và bất cứ ai nếu biết rèn luyện tư duy, thích tìm tòi đều có thể nghiên cứu một vấn đề nào đó mà mình đam mê. Để nghiên cứu đi sâu, bắt buộc con người ta phải biết suy nghĩ đơn giản và tự  tin, để đạt được một khả năng hiểu biết căn bản về mọi mặt, thì họ phải không ngừng học tập, vượt hẳn những điều trong sách vở và nhà trường. Thường vì đời sống tinh thần vô cùng căng thẳng, phức tạp, cũng như trong đầu luôn có những câu hỏi. Cho nên, những người làm công việc nghiên cứu thường cô đơn, khó tính và khổ nhọc nhất

Tư duy quả cầu và tư duy bậc thang

Ba giới hạn tư duy sáng tạo

Tư duy sáng tạo có thể hình dung khác đi như là cách tư duy theo mô hình quả cầu. Nó được vận động và tư duy chủ yếu ở tiềm thức, vì khả năng dồn nén và làm biến dạng hình ảnh ở đây rất cao, ngoài những khả năng sắp xếp riêng của nó, nó còn có nguồn áp lực bị dồn nén rất lớn từ tâm lý con người sinh ra, từ sự khao khát đạt được và giải phóng nguồn năng lượng tâm lý này. Vì vậy, nó là động lực của sáng tạo. Nhưng sáng tạo không thể đưa ra một tiền đề, rồi bóp méo nó thành những hình ảnh kỳ dị, khó coi, nếu làm như vậy, thì nó sẽ đầy thêm trong cái ngăn tiềm thức, chứ không thể giảm bớt đi khi đã loại trừ hết những phần dư thừa của vấn đề, để được gọn gàng, nhẹ nhàng hơn.

Như ta đã biết, quả cầu là một khối cầu hình tròn, mà tâm và đỉnh của nó luôn song song nhau, khi tiếp xúc với với mặt phẳng, thì chỗ bề mặt tiếp xúc là một điểm, và đồng thời trên mọi bề mặt của quả cầu là vô số điểm tạo thành. Vì thế quả cầu luôn trong tình trạng chuyển động, và bất cứ một tương tác nhỏ nào, cũng làm nó xoay chiều đổi hướng, và sau khi cân bằng, thì nó đã quay theo một trục khác hẳn. Vì thế tư duy quả cầu là tư duy cảm xúc mạnh mẽ của tâm lý, bản năng con người, đó chính là tư duy sáng tạo.

Tư duy quả cầu là tư duy được khơi nguồn từ tiềm thức, vì quả cầu rất dễ chuyển động, nên nó rất dễ phát sinh những luồng năng lượng mới, làm nảy sinh sự tương tác vào vấn đề cần giải quyết. Khi quả cầu xoay chiều theo một góc vuông hoặc đảo lộn ngược, thì vấn đề được nhìn từ dưới lên, hoặc từ bên trong ra ngoài, và nói chung vấn đề sẽ được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau, trên tất cảc các điểm tạo thành cái vỏ của nó. Vì thế sáng tạo là liên tục phải vận động ở tiềm thức, đến khi nào vấn đề được sáng tỏ mới thôi, mà kết quả đạt được có khi thay đổi hình dáng hoàn toàn đến khó lòng nhận ra, nhưng nó càng làm cho vấn đề sáng tỏ hơn bản thân nó, nó sẽ đơn giản hơn và mang nhiều ý nghĩa hơn. Lúc đạt được kết quả rồi thì quả cầu có thể đứng yên, và cân bằng một chút, ngồi thiền trong trạng thái tĩnh tọa tập trung tinh thần vào một điểm, là cách người ta giữ yên cho quả cầu không chuyễn động nữa. Là một khoảng hở của dòng chảy tư duy. Vì cách tư duy này không theo một hướng như ở tầng ý thức, mà nó có rất nhiều hướng kể cả hướng ngược lại với hướng đã được xác nhận của ý thức, từ tiền đề đã được xác định ban đầu.

Thông thường, người ta rất khó có được một ban giám khảo có đủ nhạy cảm để xác nhận một vấn đề, một tác phẩm nào đó ở mức sâu sắc, sáng tạo được. Người ta cần biết những thông tin, những cách thể hiện theo một bài bản nào đó, mà họ đã biết theo những khuôn mẫu bề mặt ý thức sẳn có thông thường, trong một khoảng thời gian nhất định. Vì thế chắc chắn rằng, những tác phẩm có tính sáng tạo cao nhất rất dễ bị bỏ qua, vì nó mới và thoát khỏi những khuôn mẫu hiểu biết của họ, và trong giây phút đứng về phía sáng tạo tuyệt đối, hay theo sự phù hợp với văn hóa, tinh thần của mình? Và để an tâm, người ta đều quyết định theo những khuông mẩu sẳn có của mình.

Vì thế theo dòng lịch sử phát triển của nghệ thuật, bao giờ những người sáng tạo đích thực cũng bị hiểu lầm, cùng với tác phẩm của họ. Họ thường bị đẩy vào tình trạng điên rồ hoặc dở hơi, như trường hợp của danh họa Van-Gốc người Hà Lan, người đã nổ một phát súng tuyệt mệnh cho số phận mình, vào một buổi chiều thu trên cánh đồng ngập tràn hoa Diên Vỹ xoắn xuýt, phát súng đó cũng đã báo hiệu để mở ra một trang mới trong lịch sử mỹ thuật phương tây, với những sắc màu chói chang, rực sáng từ những tác phẩm của ông để lại cho đời…

Tư duy sáng tạo luôn ngấm ngầm trong lòng con người, như những tầng sóng mà người ta không nắm lấy, khuất phục và dẫn dắt nó đi vào công việc một cách có lợi nhất, thì  nó sẽ gây hại cho bản thân. Tư duy quả cầu là sự linh động, vì nó rất dễ thay đổi không theo một logic lắp ráp thông thường của ý thức. Vì khi bế tắc và không thể giải quyết được vấn đề, thì nó có thể lật ngược vấn đề, đảo ngược quả cầu để tư duy, tìm xem khắp các điểm trên quả cầu, để tiếp tục tìm cách giải quyết vấn đề… Để tìm ra kết quả và thoát khỏi bế tắc.

Chắc chắn rằng người nào có khả năng tư duy mạnh mẽ và kiên trì, thì cuối cùng cũng sẽ hiểu ra, và vấn đề có thể được giải quyết như là một cách đi xuyên qua bản thân mình, với những thứ mà tinh thần từ chối, cũng như làm tổn hại đến nó. Đó là những người có tinh thần mạnh mẽ đã được thử thách, những người này nếu có tinh thần cầu tiến thì sẽ là những người sáng tạo giỏi nhất.

Tư duy quả cầu cũng là một loại tư duy nguy hiểm, vì nó luôn chuyển động không ngừng, và luôn sinh ra năng lượng làm thiêu đốt tâm can, đầu óc con người, nên những người sáng tạo tới mức gần như không cân bằng được, vì thiếu đi yếu tố giải trí trong công việc, nên đôi khi họ phải tìm tới cái chết, mới được giải thoát khỏi sự dằn vặt khổ đau . Nhưng khổ đau trong sáng tạo sẽ đựơc bù đắp bằng một niềm vui lớn lao, mà tất cả niềm vui đời sống bên ngoài không thể so sánh được.

Người sáng tạo luôn đứng bên bờ vực của sự hụt hẫng, khó thở và yếu mềm, nhưng đồng thời cũng luôn được hạnh phúc và vui mừng mỗi khi năng lượng được giải tỏa. Vì thế họ đâm nghiện cảm giác này, và sống một cuộc đời vui buồn lẫn lộn, sáng tạo không ngừng.

Những kết quả được gọi là sáng tạo, thì sự xây dựng và gia công cho nó cũng theo những logic lắp ráp thông thường. Người ta nói nhiều về các giai thoại của những người sáng tạo, như một sự kính trọng với những điều điên rồ của họ mà thôi. Giai thoại không làm nên sáng tạo và cuộc đời của tác giả, mà chỉ có ý thức được kiểm soát để xây dựng nên những thành quả mà sáng tạo đã đẻ ra. Những người có tư duy sáng tạo cao nhất, thì họ cũng đồng thời có được một ý thức khác thường để điều chỉnh và cân bằng. Vì vậy họ tồn tại.

Người ta sáng tạo mãi rồi thành thói quen, thành con đường và cuối cùng là thành công thức. Với mỗi người đều tìm được một công thức riêng phù hợp với vốn liếng, khả năng của mình. Lúc này là lúc họ đã có được kinh nghiệm sáng tạo thông qua những bài tập thất bại trước kia. Họ đã biết thêm bớt, điều chỉnh gia giảm sao cho phụ hợp với cảm nhận của số đông thưởng lãm và cá nhân sáng tạo của mình. Lúc đó là lúc họ đã vượt qua được sự mơ hồ trong tư duy sáng tạo, và bây giờ là thời kỳ sáng tạo mới bắt đầu.

 Trong sáng tạo đôi khi ý thức con người ta không kiểm soát được đời sống của mình, nên con người sáng tạo có thể trở nên ngớ ngẫn rất buồn cười, vì sáng tạo luôn tập trung tư duy ở tầng tiềm thức là chính, nên những người quá khôn ngoan, giảo hoạt và xảo biện, thì chắc chắn sáng tạo cũng bị hạn chế.

 Đừng nên nhìn bằng con mắt thông thường để đánh giá một người làm công việc sáng tạo, vì họ quyết định theo đuổi con đường của mình thì họ đã chấp nhận mọi sự xung khắc, hắt hủi của người đời. Và chắc rằng trong trái tim sục sôi sáng tạo của họ, họ vẫn là một con người bình thường, thậm chí kém hơn người thường ở một vài điểm. Còn bản thân chúng ta nên bao dung, và thân mến, với những người này, vì họ chính là thiểu số dấn thân cho những mục tiêu nằm ngoài sự thụ hưởng cá nhân mình.

Tư duy sáng tạo là một cách thâm nhập trực tiếp vào vật chất, và bỏ qua mọi định kiến, rào cản của khuôn phép ý thức thông thường, hòng thấu hiểu bản chất thật của vấn đề, thông qua sự trực nhận của bản thân. Tư duy sáng tạo rất khó khăn, là bởi  như lần mò trong bóng tối gợi cảm và rộng mở, nó phiêu lưu tới những miền đất mới đầy chông gai, nó đi vòng qua ý thức, và đôi khi phải luôn đối mặt với sự nhắc nhở của ý thức một cách nghiệt ngã nhất. Vì vậy sáng tạo phải luôn có định hướng bằng tư tưởng của thời đại mà tác giả đang sống. Đôi khi đa số người bình thường không có được sự hiểu biết này, nên những người sáng tạo chân thành có thể trở thành trò cười cho thiên hạ. Sáng tạo đích thực là không lắp ghép những thông tin, hình ảnh có được từ người khác, vì khả năng nhào nặn, xem xét của tiềm thức trong mỗi vấn đề đều rất khó khăn và phải trả giá cho những cơn đau cao như núi của mình. Vì vậy người ta thường lầm lẫn giữa sự bắt chước của ý thức với sự sáng tạo đích thực từ tiềm thức. Vì những vấn đề được biết ở ý thức thường là số lượng, và kích thước, nó phản ánh hình ảnh được tạo ra từ tiềm thức rất ít…Cứ nhìn một người có một khối lượng sáng tạo khổng lồ, với đủ mọi hình dạng khác nhau, ta có thể đặt câu hỏi là người này sống làm sao? và tư duy cách nào?  Đây là kết quả tư duy ở giai đoạn chín mùi của sáng tạo thì đó là một người khổng lồ, còn ngược lại chỉ là người biên tập hình ảnh thông thường. Khi sáng tạo đã đến độ chín chắn, thì trước mọi đường hướng lung linh ẩn hiện xung quanh, mà mặc nhiên họ vẫn đủ bình tĩnh, và hãy nhìn thấy tình cảm của họ đối với cuộc sống, hãy nhìn thấy những điều giản dị trong cách suy nghĩ, cũng như cách sống và cả trong tác phẩm của họ nữa.

Sáng tạo chỉ cần chất sống của con người và tri thức. Sáng tạo làm nên những sản phẩm mà người ta có thể dùng như những kiến thức để học tập, chứ sáng tạo không bị lệ thuộc vào kiến thức, mà nó vượt lên trên kiến thức thông thường.

Người có quá nhiều kiến thức, sống và nói bằng kiến thức, thì khó lòng sáng tạo được. Vì kiến thức sẽ làm cản trở sự phát huy của sáng tạo, kiến thức quá nhiều sẽ ràng buộc tư duy sáng tạo của con người, và nó chỉ có thể dùng để kiểm chứng trong tư duy nghiên cứu mà thôi. Sáng tạo có một đời sống tự nhiên của nó theo kiểu con người nhất. Người có sáng tạo là một sự ràng buộc với trách nhiệm sống làm người của mình, chứ không phải lấy điều đó để khoe khoang, hay cố tình tạo ra để tranh thủ cuộc sống. Dĩ nhiên logic cuộc sống luôn công bằng, vì những người này đến một lúc nào đó thì sáng tạo sẽ ngừng lại, và họ sẽ biến thái thành một kiểu mẫu khác hẳn. Trong nghệ thuật điều này khác với ngộ nhận và tất nhiên nó cũng chỉ làm khổ con người hơn thay vì sáng tạo cho rồi.

Tư duy sáng tạo là tư duy quả cầu luôn chuyển động, nó luôn quay tít theo một trục tư tưởng, tất cả mọi thông tin kiến thức đều bị nhào trộn, nghiền nát. Vì bởi cả một chuỗi quả cầu tư duy xoay tít theo những chiều hướng tự do không xác định, và vì nó là những quả cầu, cho nên phương ngang và trục đứng đều như nhau. Tư duy quả cầu với tốc độ nhanh và kéo dài theo hướng sáng tạo liền mạch kiểu này, người ta gọi đó là tư duy của các thiên tài. Vì người bình thường có tư duy sáng tạo đi chăng nữa, thì đều tư duy theo lối bậc thang từ thấp lên cao. Thường thì người ta tư duy ở tầng ý thức mà thôi, đôi khi mới tư duy sáng tạo, và vì không quen suy nghĩ trong bão táp mãi, khi mỗi lần sáng tạo là họ lại bày trò để tóc để râu, ngất ngưỡng này kia, để xoa dịu nỗi đớn đau cồn cào, mà tốc độ tư duy quả cầu gây ra. Còn thiên tài thì khác, họ có thể dùng ý thức để thu xếp vừa đủ cho bản thân được sống yên ổn, nhưng khi tư duy chuyên sâu, bao giờ họ cũng tư duy ào ào theo sự chuyển động liên tục của các quả cầu. Vì thế để đáp ứng với một thời đại bùng nổ và quá tải về thông tin, người ta thường tư duy theo khuynh hướng này, mới theo kịp tốc độ của sự phát triển liên tục. Vì hàng trăm hàng ngàn dữ liệu được đưa vào tầng tiềm thức để tư duy theo mô hình quả cầu, thì kết quả thu được chỉ còn một điểm nhỏ nhất. Đó là một nguyên tắc, một định nghĩa, định lý gì đó,… Những danh ngôn của những tài năng lớn của nhân loại, để lại cho chúng ta đọc ngày nay đều là kết quả của quá trình tư duy ở đây.

Người tư duy sáng tạo là người có tốc độ tư duy như tên lửa, đồng thời ý thức họ đủ mạnh để kiểm soát hết những vấn đề mà họ đang tư duy. Những người này giải quyết và dự liệu nhiều tầng, nhiều lớp hơn gấp trăm người thường, mà Napoleon là một điển hình. Người ta nói rằng trước khi ông đi xâm lược các nước khác, ông đã cúi xuống tấm bản đồ châu Âu hơn ba ngày đêm để tính toán các ngã đường tiến quân và rút lui, cũng như địa điểm hội quân ở một nơi nào đó. Ông ta có những cơn khùng điên khác thường và bực tức do dồn nén, nhưng ông ta rất tỉnh táo khi suy nghĩ kỹ lưỡng, cặn kẽ một điều gì dù nhỏ nhất, trước khi bắt tay vào hành động. Tốc độ tính toán và sáng tạo bất ngờ trong cách dùng binh ở thời đại đó mà ông ta là một hy hữu, nhưng đó là do thiên mệnh, đã trao cho ông ta một may mắn hơn người, về bản chất ,vì ông ta là một người nhờ có một sự giáo dục thoáng hơn các tầng lớp tướng lĩnh thời đó ở châu Âu phong kiến quân quyền. Vì các sỹ quan của Đức, Phổ, Áo, Hung và Italia được đào tạo theo bài bản Hoàng gia, và truyền thống chỉ huy quân đội chỉ trao cho các tầng lớp quý tộc và vua chúa. Duy nhất chỉ có nước Nga, dưới thời sa hoàng Pie đại đế, đã đào tạo sỹ quan theo hướng trưng dụng người tài, và đề cao sáng tạo. Và cuối cùng những tướng Nga đã đối mặt với thiên tài quân sự Napoleon, và họ đã buộc ông ta phải rút quân.

Tư duy của các thiên tài thường là hướng tư duy sáng tạo vượt qua cả tầng tư duy nghiên cứu kinh điển nhất theo kiểu bậc thang. Vì không thể tra cứu, chứng minh với tất cả mọi công thức, kiến thức để đi đến quyết định nhanh chóng được, mà họ chỉ quyết định theo trực cảm mách bảo và kinh nghiệm, trên nền tảng của kết quả nghiên cứu kinh điển. Vì họ nắm bắt những ý niệm nhỏ nhất, lờ mờ thoáng qua trong tiềm thức để lần theo dấu vết của nó đi ra đến tầng ý thức, thì nó đã khớp với yêu cầu của thực tế rồi, nên họ quyết định bất ngờ hơn người thường, Vì thế, để quyết định một việc gì, chúng ta luôn suy tư và chờ đợi đến khi tư duy cho xong, và kết quả rõ ràng, rồi lại đem so sánh đối  chiếu với hàng loạt sự kiện, hiện tượng tương tự thì làm sao có được quyết định nhanh chóng, đầy sáng tạo và bất ngờ được. Kỹ năng tư duy mạnh mẽ của một tài năng lớn là nó phá vỡ mọi rào cản của hệ ý thức thông thường, chứa đầy những quy tắc thận trọng. Nó như một quả tên lửa được lập trình sẵn ở tiềm thức, và cứ thế nó phóng ra đến tầng ý thức (nó đã chuẩn bị trước rất lâu trong tiềm thức, để đến một ngày sẽ dùng đến và nó không cần tính toán nhiều). Vì thế ngày nay các trận đánh lớn trên biển, hay trên bất cứ địa hình đồi núi gì đi nữa, người ta cũng đã chuẩn bị và nghiên cứu rất lâu trước khi tấn công. Và trận đánh đã được lập trình cho từng đợt dội bom hay tên lửa tự hành tìm diệt. Điều này khác hẳn với các trận địa phòng không trước đây là phải quay nòng pháo, phải lên đạn và bắn, vì nó rất lâu và chậm so với một tầm nhìn bao quát và tiến bộ hơn. Ta ví dụ điều này là để thấy cách tư duy của thiên tài khác với người thường, là trong tiềm thức của họ luôn có chuẩn bị cho mọi tình huống phù hợp có thể xảy ra, nên khi ta nhìn thấy họ làm việc hoặc tư duy quá nhanh, quá bất ngờ, đều hiểu lầm là do họ nông cạn hoặc may mắn. Nhưng đó là do khả năng tư duy của chúng ta tiếp thu không được mà thôi.

Tóm lại tư duy sáng tạo là khả năng vượt lên những tiêu chẩn hình thức bên ngoài, để tìm thấy những khả năng mới ẩn tàng bên trong con người. Đồng thời nếu sáng tạo dần lên cao, sẽ thay đổi được cả những giá trị nhận thức của con người, vốn sẽ phải bù đắp và bổ sung theo thời gian vì phải phát triển. Người ta nói sáng tạo có thể khai sáng thế giới, nhưng những ai thường quá coi trọng vấn đề sáng tạo như thần thánh thì sẽ chẳng sáng tạo được gì, vì sáng tạo cũng bình thường như các nhu cầu sống khác thôi. Vì thế hãy sáng tạo đi mà đừng toan tính nhiều quá.

Ba giới hạn của sáng tạo.

Ngoài cách sáng tạo thông thường mà chúng ta đã biết, thì có ba giới hạn sáng tạo đặc biệt mà những người sáng tạo với tinh thần tận hiến ắt sẽ gặp phải, đó là:

  1. Sáng tạo theo  giới hạn vô minh
  2. Sáng tạo theo giới hạn sơ khai
  3. Sáng tạo theo giới hạn uyên nguyên

Sáng tạo ở giới hạn vô minh là một sự ngộ nhận trầm trọng từ bên trong tiềm thức con người, những người sáng tạo ở giai đoạn này thường bị lừa dối và tự đánh lừa mình, dựa vào hàng loạt thông tin bên ngoài tác động vào dữ dội, làm sục sôi bầu nhiệt huyết sáng tạo dâng cao, nên họ hăng say sáng tạo cuồng điên bất chấp sự phản đối của mọi người. Ở giai đoạn này, vì thiếu sự hiểu biết ở tiềm thức và dư thừa kiến thức chồng chất ở tầng ý thức, nên họ bị lộn ngược như một chiếc túi bị kéo từ trong ra ngoài, mà chính bản thân họ luôn hoài nghi về nó. Nhưng để an tâm, họ tự đánh dấu vào tiềm thức của mình bằng các sự kiện, mà cuộc sống đã từng xảy ra. Điều này là một cách chữa cháy, hơn là một phương thuốc hữu hiệu để chửa trị dứt điểm căn bệnh này.Vì lầm lạc kéo dài, nên họ cũng đã quen dần với đời sống tinh thần kiểu này, mà không đủ động lực để thay đổi. Vì khi họ muốn thay đổi thì vốn liếng của tuổi trẻ của họ cũng đã tiêu phí hết rồi. Để phân biệt cảnh giới vô minh với sơ khai, ta chỉ có cách xác định con người vô minh thì chưa hình thành tư tưởng, mà đã vội dấn thân liều mạng quá nhanh. Ngày nay, người ta coi sáng tạo ở đây như là hành động nghệ thuật, hơn là tác phẩm nghệ thuật. Hay nói khác hơn là nó cũng không nằm trong hệ thống thẩm mỹ thông thường của mọi người. Nhưng chính những điều sai lầm phi lý nhất thì ngày nay cũng đã được các học giả, các nhà nghiên cứu xem như là những hiện tượng phát sinh của xã hội hiện đại tất yếu phải có. Vì thế trên mọi lĩnh vực nghiên cứu, không còn một con đường nào có thể được gọi là sai lầm, và không thể không công nhận nó. Tuy nhiên những nhà tư tưởng loại này họ có chung ý kiến với nhau hay không, thì đều có xu hướng đi đến một thỏa thuận là phủ nhận lịch sử, sửa chữa ngôn ngữ và đảo lộn mọi logic tư duy con người bằng việc làm của mình. Họ xem con người như một vật quy chiếu của cuộc sống, mà họ tồn tại nhưng không có mặt. Mọi thứ như tôn giáo, nhà nước, chính trị, nghệ thuật đều là phương tiện mà thông qua đó đã làm suy yếu tinh thần con người? Đó là tư tưởng của những người theo chủ nghĩa hư vô. Là con đường thoát ra một định chế tồn tại tối thiểu, để tìm riêng cho mình một “liên định chế” mới, và sự tồn tại sẽ đứt quảng hay liên tục, là khả năng kết hợp được của con người với cuộc sống hay không, mà anh ta có quyền thụ hưởng theo cách mà anh ta muốn. Những hệ tư duy này ra đời rất lâu song hành với sự vận động và phát triển của lịch sử. Nhưng đến nửa sau thế kỷ 20 người ta mới dùng đến thuật ngữ “hậu hiện đại” để gọi tên cho trào lưu sống theo kiểu này. Bởi vì những tín đồ của môn phái này thường hiểu lầm “tín đức” của các nhà tư tưởng của họ. Và như theo nhà nghiên cứu Charles Jeneks người Mỹ cho rằng “hầu hết những người theo trào lưu này ra khơi đều sai lầm và càng không thể bảo vệ được lý tưởng của mình. Vì nó phản lại những cơ chế sinh học của con người, và cơ chế điều khiển học của xã hội. Và như vậy theo thời gian, họ càng đi sâu vào hoang tưởng hơn là lý tưởng”. Nhưng chí ít, họ đạt được hai mục đích lớn mà loài người ít có dịp được nhận. Đó là cách sống khác thường và thất bại trong ý nghĩa của một con người. Nhưng tư tưởng hậu hiện đại là một hệ tư duy lớn mà chắc chắn rằng nhân loại không thể nào phủ nhận được? Vì ở đó là ước mơ một thế giới đại đồng, bình đẳng không phân biệt, phân chia gì hết, không theo những lối mòn tư duy mà xưa nay chúng ta đang nghĩ.

Nói đến điều này là nói lên sự ấu trĩ trong tư  tưởng của chúng ta không thể giải quyết nổi những cái không phù hợp với mình mà thôi. Vì hầu như những nhà nghiên cứu về “hậu hiện đại” đều sai lầm trong cách giải thích, vì họ là những nhà phê bình có nền tản kiến thức của tư tưởng hiện đại. Tuy nhiên ít nhiều thì đó là vấn đề mà họ quan tâm, và ít nhiều cũng cung cấp cho chúng ta một lượng thông tin “bên lề” của vấn đề này.

Để nhìn thấy được những khoảng hở của những biến động trong tư tưởng của từng thời đại, là cái cách mà lịch sử quan sát đức tin của con người, vì có thể gọi là trái hay phải, sai lầm hay không, đều không có ý nghĩa khi mà con người đã đến lúc giáp mặt với thượng đế. Và điều này có thể xảy ra với bất cứ ai trong thời đại ngày nay. Khi mà con người chỉ còn nhìn thấy quá gần với mình, một ông già được che kín với quá nhiều bí mật, và khi họ chọn lựa ông ta hay không, thì đó cũng chỉ đơn thuần là cách lựa chọn… có hay không thì cuối cùng đó cũng chỉ là dấu chấm hết của tư tưởng, và là dấu phẩy của ngã rẻ cuộc đời, với con đường nào thì cũng khó lòng chạm tới chân lý, và do đó con người đâm ra mất hết mọi ý nghĩa sống, mà không sống nữa thì không được, nên họ sống theo cách mà họ muốn, với những niềm vui nhạo báng con người cũng như cười cợt với chính mình. Và điều này ngày nay người ta đã chính thức công nhận nó như một nhu cầu trong cuộc sống của con người thời đại mới.

 

     . Sáng tạo ở giới hạn “sơ khai”

Sơ khai là một giai đoạn bùng phát đột khởi trong bản năng con người. Người nằm trong tâm trạng này dần mất đi một phần ý thức quan trọng để định liệu cho sự tồn tại của mình. Nhưng nhờ có niềm tin, và tư tưởng thông qua sự thấu hiểu những kinh nghiệm tinh thần trước đây, trạng thái sáng tạo này cũng giống như giới hạn trên kia vừa kể. Đó là con đường đi ngược lại bề mặt nhận thức thông thường của ý thức chúng ta.

Sơ khai là một cuộc khai quật tinh thần con người, về hình thức, sơ khai là một con đường đi tắt để tiếp cận những giá trị hiện đại. Như một vòng tròn và khi đi quá những giới hạn bên trong của tiềm thức, nó dần lộ ra và gặp gỡ với tính hiện đại, hòa làm một với hiện đại, và nó là một phần của hiện đại.

Sơ khai là một sự thật thô ráp, nhưng nó không phản kháng với tính hiện đại, không phản bội những nguyên tắc truyền thống và phản cảm với đạo đức nhân sinh. Sơ khai là phần tro tàn của thế giới quan nguội tắt, nhưng sơ khai rất dễ bị hiểu lầm từ phía người xem và ngộ nhận chính bởi người vẽ.

Sơ khai không cần chắt lọc nhiều từ hệ thống cảm quan thẩm mỹ thông thường, mà nó chỉ cần tư tưởng và sáng tạo. Sơ khai là thời kỳ đột biến của sáng tạo, sơ khai rất dị ứng với những thứ nước hoa và nước mắt, nó vượt lên trên những tình cảm thông thường của người đời. Nên để hiểu được thể loại nghệ thuật này thì phải trang bị một hệ ý thức mới, tối thiểu nhất để có thể tiếp cận được. Vì nó không thể đem những quy chuẩn hàn lâm ra để phán xét, điều đó chỉ làm lộ ra vô số lỗi lầm cho cả người xem và tác phẩm. Sơ khai là một dạng tâm thức độc giác.

Sơ khai cũng như  vô minh, hai giới hạn sáng tạo này luôn mang nặng “hành động nghệ thuật” hơn là tác phẩm. Nhưng tác phẩm sơ khai là kết quả của quá trình sáng tạo để thanh lọc tinh thần và ghi chép lại kinh nghiệm tâm lý cá nhân hơn là thỏa mãn tầng mỹ cảm chung của mọi người. Khác với vô minh, người sáng tạo ở giới hạn này phải thật khéo léo và tin tưởng tuyệt đối vào khả năng của mình, nếu không vững sẽ sập bẫy của nó ngay, và sẽ dẫn đến “tẩu hỏa” cũng không biết chừng. Vì đây là một sáng tạo ở giới hạn khó khăn và nguy hiểm. Nó cũng có thể được xếp vào thể lọai “hậu hiện đại”

 

Sáng tạo giới hạn “uyên nguyên”

Đây là một giới hạn sáng tạo của số ít người được liệt vào hạng cao minh, thánh trí. Dựa trên những lý thuyết biết được của triết học Phật giáo mô tả những cảnh giới tinh thần của những người tu học đã thành đạt, tôi chỉ có khả năng ghi lại bằng ngôn ngữ sự mô tả đó chứ hoàn toàn chưa có sự hiểu biết của mình, cũng như không thể tiếp cận được giới hạn này, nhưng  thông qua những gì đã mô tả trong các bộ kinh điển Phật giáo, chắc chắn rằng điều này là có thực.

Trên con đường tiến bộ của tinh thần, giới hạn này là cao nhất đối với những người nhập thế. Nó rất rõ ràng và thực tế chứ không mơ hồ như những lý thuyết vô vi của phái tự nhiên, hay của phái hư vô chủ nghĩa. Nó có khuynh hướng tích cực là vẫn hoạt động lao động bình thường trong một trạng thái vui sống an lạc cho tâm hồn con người. Ở đây có thể đã hết những ám ảnh thường trực của tâm lý con người mà đời sống vốn có, mà là một khung cảnh tươi sáng và tinh khiết uyên nguyên, trong suốt và mọi vật trở nên đẹp đẽ lạ thường. Ngày xưa những người tu tiên thường hướng tới giới hạn này, và đây là nét văn hóa tâm linh đặc sắc của con người Phương Đông. Những hình thức thiền học, là những hình ảnh, ngôn ngữ, âm thanh, ánh sáng đã được phản chiếu từ đây, nơi đó có một con đường thông suốt từ vô thức xuyên qua tiềm thức và đến với ý thức bên ngoài. Con đường đó luôn được thắp sáng bằng một thứ ánh sáng tâm thức kỳ diệu, nó luôn vui sống hạnh phúc trong một tâm thế hòa bình tiến bộ. Những người đạt được giới hạn này trong tinh thần mình, là những người thoát khỏi mọi thứ ảo tưởng phù phiếm của cuộc sống trong vòng danh lợi, nhưng cũng chưa thể nói là đắc đạo. Họ chỉ là những người có được trí huệ sáng suốt hơn người, do có công luyện tập suốt cuộc đời

Những nhà thơ lớn của trường phái Haku Nhật Bản thường là những người rất nghèo, nhưng họ đã được các bậc vua chúa tôn trọng như thầy mình.

Ngày nay, những người đi theo con đường lánh thân, tu học, tham thiền vui sống một mình không còn hợp thời nữa, mà các giá trị hiện đại luôn xác định rằng con người phải biết cách hòa mình sống chung trong một xã hội tiến bộ, như vậy mới mong tiếp cận được kiến thức, tri thức của thời đại mà mình đang sống và đồng thời mới có cơ hội cống hiến cho xã hội.

Tư duy hiện đại

Ngày nay, người ta nhắc mãi tới hai từ “hiện đại” hay đương đại, thật ra đó là điều cần phải xếp lại chứ không nên bàn cãi nữa. Đến ngày nay thì mỗi người đều biết quá rõ về nó rồi, những người còn bàn cãi về nó mãi và cứ phân vân giữa các hệ tư tưởng, các thang giá trị mà người ta đã thực hành trong mọi lĩnh vực, hơn cả trăm năm nay rồi thì tư tưởng của chúng ta quá lạc hậu và cần phải thay đổi để học tập những cái khác. Vì khi tìm hiểu con người và thế giới khách quan bên ngoài, người ta đã khám phá gần như là đến tận cùng, vượt qua hẳn những phần đức lý, cũng như những nguyên tắc sống thông thường của giới hạn đó. Vì thế văn hóa và tri thức toàn cầu như một dòng chảy lớn, nó chỉ có thể tràn vào những nơi rộng mở và giàu tiềm năng, những vùng đất mang nặng phong tục và văn hóa địa phương hạn hẹp thì thường bị tắc nghẽn, phân lập, và rối loạn.

Tư duy hiện đại bao gồm tất cả các hệ ý thức từ xưa đến nay, từ hàn lâm cổ điển cho đến những hệ ý thức mới nảy sinh của thế kỷ 20. Vì thế nó vô cùng rộng lớn, nên con người hiện đại thường bị quá tải về kiến thức và sinh ra biến thái kỳ dị như những tình trạng đa nhân cách, hoặc nhận thức thế giới quan được tốt hơn ngày xưa rất nhiều, nhờ vào các thành tựu khoa học mà con người đã đạt được.

Ngày nay người ta luôn lo sợ bị lạc hậu và mong cầu được học hỏi, đổi mới nhưng người ta quá đơn độc. Một dân tộc quá đơn độc thì luôn lo sợ cho những bất trắc sẽ xảy ra. Vì khi đó, nó sẽ đánh đổi rất nhiều quyền lợi cố hữu của con người, của dân tộc đó, để thay vào một hệ tư duy mới, rộng thoáng hơn và tiến bộ hơn.

Vì vậy ở mỗi con người muốn có được sự hiểu biết, và sẵn sàng cho trí tuệ mình phát triển, là sẵn sàng đương đầu với những khó khăn , những quyền lợi tinh thần của bản thân mình, thì mới mong tiến bộ được. Những kẻ hẹp hòi, đố kỵ và quá nhiều hiểu biết vặt vãnh, thì luôn lo bảo vệ những gì mình đã phấn đấu đạt được mà thôi, chứ khó lòng hiểu thêm một điều gì nữa. Họ không thể hy sinh những quyền lợi cá nhân mà họ đã phấn đấu đạt được. Lý thuyết dấn thân là một lý thuyết mơ hồ và không thực tế, đầy nguy hiểm, điều này không thuộc lý thuyết của số đông, nên mọi người chỉ lo sống theo những cái gì đã có thì được rồi, và đó là lẽ đương nhiên, nên có thể nói họ không sai lầm gì cả vì phần việc của họ đã hết.

Ngày nay, mọi sự bàn cãi quá nhiều trong sáng tạo thường không    thể  dẫn đến việc xây dựng  hoặc bổ khuyết cho nhau, mà thường dẫn đến sự rối loạn. Đa phần người ta nói về nghệ thuật trong thời gian này ở đất nước ta, là sự tranh luận xoay quanh vấn đề là nên hay không nên du nhập những kiểu mẫu, mô hình nghệ thuật mới của phương tây vào nước ta hay không, và phải biến đổi, cải tiến những kiểu mẫu, mô hình đó như thế nào để phù hợp với truyền thống, văn hóa của Việt Nam? Điều này luôn luôn là một câu hỏi lớn cho những đất nước có truyền thống và văn hóa không đủ mạnh.

Trong đời người sẽ có một cơ hội duy nhất để làm một chuyến đến tận chân mây cuối trời, mới mong có được sự hiểu biết rõ ràng được. Ở một hoàn cảnh nào đó, người ta đều không biết cách để đi đến đó. Vì phải có một tình yêu vô cùng thì mới sáng tạo lâu dài được. Bình thường người ta sáng tạo ở mức cố gắng để chấp nhận được, thì giá trị xuất sắc của tác phẩm sẽ bị hạn chế và dừng lại

Theo tôi chỉ có ba loại giá trị để nhận biết:

  1. 1.     Loại thấp kém

Loại này thường tập trung ở những kẻ bất tài, kém hiểu biết mà thích bon chen chứng tỏ ta đây. Loại này là bậc thầy của sự bắt chước để khoe mẽ chứ không phải để học tập, nhưng bề ngoài loại này ở hình thức thường hay nổi trội bằng các mánh lới quảng cáo, sự lòe loẹt trong suy nghĩ và dày đặc thủ pháp đánh lừa. Tác phẩm thường là những bố cục lỗi thời nhưng cố bóp méo nó đi, khả năng kỹ thuật gia công cũng không tới, chiều sâu nhận thức kém,… Đây là loại thời trang hợm hỉnh.

  1. 2.     Loại khá tốt

Đây là suy nghĩ và hành động của những người sâu sắc tài năng. Họ luôn biết mình và biết rõ bối cảnh lịch sử mà mình đang sống, cho dù họ có nhiều sai lầm trên con đường sáng tạo, nhưng họ cũng tìm ra một điểm chung của cá nhân sáng tạo và số đông thưởng lãm. Cuối cùng họ đúc kết được rằng đó là sự quân bình giữa sáng tạo và những đòi hỏi bình thường của đời người. Những tác phẩm mà họ làm được không phải là xuất sắc nhưng đã hội tụ đủ mọi tiêu chuẩn đánh giá xác thực của nghệ thuật. Vì bao giờ họ cũng đề cao nhận thức chiều sâu của vấn đề, và khả năng gia công hoàn hảo, tuyệt vời. Với những tác phẩm loại này, không cho phép có những lỗi lầm dù nhỏ nhất, vì thế nó sẽ làm hỏng đi toàn bộ tác phẩm. Đó là loại tác phẩm khá cho những người sáng tạo khá. Nhưng phần đông do quá cầu toàn, và đến cuối cùng độ nhạy cảm, sức khỏe vơi dần và nghệ thuật đơn thuần chỉ là một công việc kiếm sống bình thường, và tác phẩm của họ cũng khô khan vì quá phô diễn kỹ thuật gia công. Đây là mẫu người thành công trong nghệ thuật ở xã hội chúng ta.

Vì thế nền nghệ thuật của chúng ta cũng chỉ ở mức khá thôi chứ không bao giờ bằng, hoặc đạt được những thành tựu to lớn sánh vai với thế giới được. Những người như Lê Bá Đảng, Điềm Phùng Thị thành công ở đẳng cấp thế giới là bởi vì họ sống ở Châu Âu, nơi mà nền tảng của nghệ thuật kinh điển có hơn cả nghìn năm rồi. Cho nên hãy nhìn nhận một cách thật khách quan để định lượng tầm mức, và khả năng của những người làm nghệ thuật ở nước ta… Mặc dù so với mấy chục năm trước tình hình đổi mới ở nước ta là rất lớn, nhưng dù sao đất nước Việt Nam cũng còn nghèo và lạc hậu so với các nền kinh tế công nghệ cao của các nước khác, Vì thế tất cả những gì các nghệ sỹ Việt Nam làm nghệ thuật đều cũng chỉ sao chép của nước ngoài mà thôi, và họ chỉ lo vẽ làm sao để bán được và sống được rồi mới tính chuyện làm nghệ thuật, mãi loay hoay so đo tính toán nên họ không có thời gian tìm tòi chuyên sâu nữa.

  1. 3.     Loại xuất sắc

Đây là mẫu người tư duy đỉnh cao xuất sắc, luôn quên mình trong những suy tưởng tìm kiếm cái mới một cách âm thầm, ẩn thân sáng tạo. Họ luôn sai lầm ở lý tưởng và cách sống trong con mắt người đời, vì thế đôi khi quá cực đoan để xem mình không thể đứng chung với bọn bất tài già mồm được. Vì quá chủ quan trong cách đánh giá về các mặt khác trong cuộc sống, so với đời sống tinh thần của mình, nên họ dễ xa rời với những ràng buộc cần thiết của cuộc sống, từ đó mới đến những ảnh hưởng của tư duy. Đó là những người có nhu cầu sáng tạo mãnh liệt không ngừng nghỉ và không so đo tính toán. Đây là một dạng cá biệt trong sáng tạo. Ở mỗi người nghệ sỹ đôi khi cũng chạm tới những cảm giác này chút ít thì đã may mắn lắm rồi, còn lại mà kéo dài cả đời thì đó chỉ là bất hạnh. Những tác phẩm được làm ra từ những bàn tay mạnh mẽ này, bao giờ cũng rất sâu sắc và cuốn hút đầy ám ảnh. Những tác phẩm loại này thường sai sót rất nhiều ở những tiểu tiết và bề mặt gia công . Nhưng để nhìn được vẻ đẹp của nó là một kỳ công, vì cần phải bỏ qua nhiều thứ luật lệ đã ràng buộc ý thức con người. Những tác phẩm loại này gần như là rất hiếm và những người sáng tạo loại này thường là bị hiểu lầm, bị từ chối hoặc đã tuyệt chủng từ lâu do thành kiến và sự ngu xuẩn của người đời. Vì thế để nhìn ra được một bức tranh không phải ta cứ nhìn rồi đánh giá từ mặt trước của bức tranh mà phải biết nhìn mặt sau của bức tranh mới biết được nó đẹp nó hay ở chỗ nào.

Ở nước ta đa phần những người phê bình nghệ thuật đều không có cái nhìn này, do vậy họ chỉ cãi cọ và cày xới mãi trong những mớ kiến thức hiểu biết củ kỷ của mình, hoặc thù hằn, chửi rủa, hoặc anh em khen tặng nhau cho vui.

Những người sáng tạo xuất sắc ở xã hội ta, vì theo tinh thần đạo đức Phương Đông họ luôn thu mình lại và sáng tạo ở mức khá tốt. Vì người đời thường coi những sáng tạo xuất sắc là sai lầm. Nhưng để an toàn cần bảo vệ nghệ thuật cũng như bảo vệ cuộc sống của mình, người khôn ngoan nào cũng quay về sống ở mức khá tốt chứ không đủ dũng khí để hy sinh hết mình cho nghệ thuật được. Thời của những tài năng tử vì đạo qua rồi, và những giá trị đó cũng lỗi thời, vì thời kỳ lãng mạn đã hết, nên chất lượng nghệ thuật trên mọi mặt đều xuống cấp và báo động. Nhưng dù sao những người tâm huyết nhất cũng chỉ làm được một phần nhỏ, là hô hào tiến lên, mở rộng vòng tay cho làn gió mới thổi vào. Đồng thời bọn bất tài cơ hội cũng chui vào được một đám, và xem đó là tiêu chí để tiếp tục cãi nhau.

Ngày nay người ta còn bàn cãi quá nhiều trong nghệ thuật, nhưng thực ra là do sự so sánh cảm tính có ít nhiều sự thay đổi trong đánh giá nghệ thuật mà thôi. Bản thân hội họa giá vẽ là một mảng riêng biệt dễ nhận biết nhất. Vì tất cả các trường phái, các cách vẽ, tư tưởng, quan niệm nghệ thuật to tát đều chỉ là những bài tập bình thường mà thôi. Vì ngày nay người ta cần phải chấp nhận tồn tại nhiều hệ tư tưởng cùng sống chung hòa bình với nhau, cùng bổ sung và cùng phát triển. Tại sao chúng ta lại kêu gọi sáng tạo, tìm kiếm cái mới, chấp nhận nhiều khuynh hướng nhưng đồng thời lại hạn chế sự phát triển của các hệ tư duy khác, xung quanh hệ tư duy chính thống. Điều này quả là mâu thuẫn từ bên trong của nền tảng giáo dục, nhận thức phát triển của chúng ta. Như ta đã biết tất cả các giải thưởng văn học nghệ thuật trong nước đều được một hội đồng “ổn định” chấm giải, và tác phẩm chỉ đạt ở mức khá trong sáng tạo mà thôi, khi nào những tiêu chí này được nâng cao hơn nữa thì lúc đó kêu gọi sáng tạo mới hiệu quả. Chúng ta phải nhận rõ rằng những tiêu chuẩn đánh giá hiện giờ của các giải thưởng trong nước là không theo những tiêu chuẩn đánh giá của thế giới, mà nó chỉ có thể thích hợp với những tài năng tầm tầm, với những vị giám khảo tầm tầm mà thôi. Điều này thực sự làm cho những người giỏi, những nghệ sỹ thực tài xa lánh và không có điều kiện cống hiến cho xã hội, từ đó sẽ mai một những người có tâm huyết. Vì những nơi thực sự có bầu không khí hòa bình và văn hóa thì người tài mới phát triển được. Tư duy hiện đại phát triển và thực hành rộng khắp trên thế giới hơn một thế kỷ nay, ở nước ta, chỉ mới vài chục năm, nên người ta còn bàn cãi thì cũng đúng thôi. Nhưng ngày nay cần phải xem đó như những thang giá trị đã ổn định, để làm tiêu chuẩn xem xét cũng như nghiên cứu phê bình, lý luận.

Tư duy hiện đại là hệ tư duy phản biện đầy đủ nhất, bất cứ vấn đề gì nó đều yêu cầu có nghiên cứu kỹ lưỡng cả mặt trái của vấn đề, các hệ tư duy cùng được tôn trọng, và tồn tại công bằng với nhau trong đời sống tinh thần của xã hội hiện đại. Vì nó đòi hỏi sự phát triển ở mức đỉnh cao của đời sống tinh thần con người, nên các mặt đối lập, các góc khuất trong con người đều được đem ra xem xét, mổ xẻ một cách minh bạch, nên có nhiều người không thích ứng được cách biểu hiện của trí tuệ, tình cảm của con người hiện đại và họ thường phê phán rằng con người hiện đại, đang dần đánh mất bản chất con người đi hơn trước kia. Theo tôi điều này thật sai lầm. Vì con người văn minh đồng thời với những tìm tòi nghiên cứu hòng nâng cao các giá trị đích thực của con người lên cao hơn, và cái cách mà đạo đức giáo dục thời phong kiến xa xưa, là cách lợi dụng lòng tin của con người đối với tôn giáo, ngu dân, mỵ dân và bạo ngược. Vì phải áp dụng những đường lối chính trị bảo thủ, phản tiến bộ như thế, thì những người cầm quyền mới dể bề cai trị. Ngày nay người dân đã có trình độ dân trí cao và bao giờ họ cũng lựa chọn được cho mình đời sống chính trị ổn định, tự do và dân chủ, vì thế nó không còn bó hẹp trong một tổ chức nào, vì mục đích sống của con người là mưu cầu hạnh phúc thì bao giờ cũng giống nhau.

Ngày nay, tri thức và tư tưởng luôn mở rộng ra cho tất cả mọi người đều có cơ hội như nhau để học tập và làm việc. Mỗi hệ tư tưởng đều có đỉnh cao của nó, và những người thành công nhất ở mỗi lĩnh vực tư tưởng đều có vị thế tự do và hành động, để cống hiến tài năng của mình. Ví dụ: trong hội họa, mở đầu người ta vẽ tả chân, đến tả thực, sau đó ấn tượng và sau ấn tượng thì đó là cả một loạt trường phái ra đời để phát biểu bằng hình ảnh, cho các hệ tư tưởng như hiện sinh, phân tâm học, lập thể không gian ba chiều được mổ xẻ trên bề mặt hai chiều, rồi siêu thực và trừu tượng vv… Kế đến do nhu cầu thể hiện mình quá cao, vì bản chất của một số nghệ sỹ phải chịu đựng những áp lực tâm lý trong xã hội công nghiệp hiện đại, nên họ làm nghệ thuật mới, được gọi chung các loại hình nghệ thuật hợp lại như âm thanh, ánh sáng, môi trường, địa hình, thị giác, múa, xiếc và trình diễn, video art vv…

Tất cả những điều này nếu là một họa sỹ có quan tâm nhiều đến nghề nghiệp thì chắc chắn đã biết rõ và chỉ việc vẽ theo một trường phái nào đó mà thôi, đi đến cùng một con đường thì cũng là đi tới đỉnh cao trong nghệ thuật, Vì nghệ thuật chân chính nó cũng như tôn giáo, cả hai đều xuất phát từ sự sợ hãi của con người và kết thúc bằng niềm tin khi đã vượt qua sự sợ hãi đó.

Nhưng yêu cầu của thời đại ngày nay, là những yêu cầu của tri thức đặt ra cho con người cần phải giải quyết cũng như là sự lý giải cho những hiểu biết mới của mình, về hình thức cũng rất cần thay đổi sao cho chiều sâu tâm linh của tác phẩm vẫn thể hiện được tốt nhất.

Quan niệm nghệ thuật mới của chúng ta

Như ta đã biết với sự phát triển như vũ bảo của khoa học kỹ thuật đa truyền thông, cả thế giới này như xích lại gần nhau hơn. Toàn cầu hóa đã là một xu hướng phát triển tất yếu, hình thành nên một môi trường văn hóa mới, mà yếu tố “hàng hóa” ngày càng thay đổi diện mạo cũng như tập quán thói quen tiêu dùng của các nước đang phát triển như Việt Nam chẳn hạn. Từ đó văn hóa cũng bắt đầu thay đổi.

Chúng ta phải nhìn nhận rằng sự thay đổi này là không thể nào cưỡng lại được, khi Việt Nam đã gia nhập WTO, chúng ta đã bước vào một sân chơi lớn hơn và cam kết với thế giới trong tất cả các mối quan hệ song phương, đa phương từ đó nguồn thông tin, tri thức đổ vào Việt Nam cùng với hàng hóa tiêu dùng rất lớn. Đó cũng là thách thức lớn cũng như nhiều cơ hội cho chúng ta phát triển.

Sự phát triển tri thức của thời đại chúng ta lúc này, đã đến lúc bảo hòa với các hệ tư tưởng khác nhau, cùng dung hòa và phụ thuộc vào nhau, trong một bối cảnh xã hội vận động không ngừng. Từ đó nâng lên những giá trị mới, nới rộng hơn cái quan niệm lẫn quẫn tồn tại trong ý thức người Việt Nam, khi bắt đầu trên con đường hội nhập, phát triển. Trong xu thế cạnh tranh và bù đắp lẫn nhau, với những quan niệm khô cứng về nghệ thuật trước đây được dở bỏ. Dần dần những người trẻ sẽ tiến bộ hơn và trưởng thành hơn, họ tạo ra một tiếng nói mới, những phát hiện mới của họ là tiếng nói trẻ trung nói lên khát vọng đổi mới của dân tộc, tập trung thành sức mạnh mới, sức mạnh này là cái “chung tay góp sức” của tất cả những người Việt Nam.

Thời đại đã dự báo cho những thay đổi lớn bắt đầu, đó là thời đại của chúng ta. Khi tri thức đã là của chung mọi người và rất dễ tìm thấy nó không còn là của riêng ai, những người trẻ là những người ngày càng được trang bị một nền tảng kiến thức tốt hơn, rộng hơn và mới mẻ hơn. Ở đó là sự gắn kết giữa các thành phần xã hội với nhau, không gì khác hơn là mọi người cùng chia sẻ công việc, và tạo nên một mối quan hệ cộng đồng vững chắc, trật tự và đầy sáng tạo, như một dòng thác đổ không ngừng, mọi người đều bị cuốn vào sức lôi cuốn do sự phát triển của nó, đó là sự phát triển tất yếu của thời đại chúng ta.

Vì vậy tính cộng đồng ngày càng là vấn đề được giải quyết như những nhu cầu cấp thiết cho quá trình hoạt động xã hội phát triển. Ngừơi ta sẽ làm quen và sống trong môi trường tương lai đó, như một sự giao tế cộng đồng phổ thông nhất. Khi nhu cầu của nghệ thuật ngày càng cần thiết đáp ứng cho xã hội, thì ở đó mỗi cá nhân dẫu sao chỉ có thể làm được một việc, một loại hình nghệ thuật trong một thời điểm nào đó, có vượt qua giới hạn của không gian  thì cũng chỉ là một cá nhân mà thôi. Nghệ thuật của tương lai là thứ nghệ thuật cộng đồng của từng nhóm người, và bao gồm tất cả các loại hình nghệ thuật từ vẽ tranh, nhiếp ảnh, thơ ca, cho đến âm nhạc và vũ đạo. Ở đó các nghệ sỹ như gắn kết lại với nhau và các biên giới của các loại hình nghệ thuật, như được nối liền nhau trong một không gian đa chiều kích. Từ đó nghệ thuật được hòa trộn với cuộc sống của người nghệ sỹ và cả công chúng thưởng lãm trong một không gian sống thực, có chứa đầy đủ các kiểu vận động dung hòa và tương thích với nhau. Điều này có thể làm thay đổi cách nhìn lịch sử của các viện bảo tàng, từ đó cho ta thấy được tính ứng dụng cao của nghệ thuật, và các viện bảo tàng đồng thời là nơi trình diễn trưng bày của nghệ sỹ. Đó chính là bộ mặt mới của nghệ thuật chúng ta.

Nghệ thuật của tương lai nó sẽ mang tính ứng dụng “tức thì”, như những sự kiện mang đậm chất thời sự của xã hội hiện đại, ở đó chúng ta đều chia sẻ cơ hội thể hiện khả năng bằng nhau ,và đồng thời mỗi cá nhân là một nhân tố tương tác với cộng đồng, để làm nên vóc dáng của một nền nghệ thuật mới. Ở giai đoạn này, người có khả năng nhất là người biết làm nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau, đồng thời là một người điều hành quản lý các hoạt động của nhóm, của các tổ chức hoạt động mỹ thuật.

Với những nhu cầu như thế, các nghệ sỹ trẻ ngày nay cần thiết phải triệt để xem xét lại cái tôi của mình, là họ luôn muốn đứng ngoài cái vòng xoáy của xã hội, đồng thời muốn làm nghệ thuật một mình và từ đó sẽ dẫn đến sai lầm và cô lập. Vì ngày nay khác với khoảng đầu thế kỷ 20 là do các con đường đã có sẵn rồi, đồng thời mọi hệ tư  tưởng cũng tới hạn, vì thế không thể nói là nghệ thuật dừng lại nhưng nó sẽ giao thoa với nhau, đan kết, kết hợp lại với nhau như một sự pha trộn về văn hóa, lối sống, cách thức tiêu dùng của con người trong thời kỳ hội nhập. Vì vậy chúng ta nên đứng kế bên nhau tạo thành từng nhóm, mỗi người với các loại hình nghệ thuật có thể làm được thành một thứ nghệ thuật tiêu dùng ngay lập tức, và đó cũng là khuynh hướng phát triển tất yếu của nghệ thuật chúng ta. Nghệ thuật cộng đồng không có nghĩa là nó triệt tiêu những ưu thế nghệ thuật truyền thống, hàn lâm. Nghệ thuật hàn lâm  bao giờ cũng là nền tảng vững chắc cho nghệ thuật hiện đại vì nó luôn cần có hai điều: Sự thật và thực tế.

Người nghệ sỹ thông qua lộ trình mơ mộng và sáng tạo của mình đến một lúc nào đó họ chạm đến sự thật, cái nhân bản trong lòng người, đó là mẫu số chung cho tất cả mọi người. Dù anh ở đâu trên trái đất này, anh có mơ mộng xa xôi tới đâu nhưng sự thật đó luôn giống nhau và điều này rất quan trọng đối với một tác phẩm nghệ thuật vì nó nói lên tiếng nói của trái tim con người.

Còn thực tế là thế giới quan của thời đại, là hơi thở, sức sống, không khí của bối cảnh được dàn dựng trong tác phẩm nghệ thuật. Người có vốn sống phong phú quan sát thực tế rất thực và sáng tạo sẽ trở nên khác thường, và rất gần gũi với nhãn quan con người. Những người làm nghệ thuật đạt được hai điều này trong khả năng của mình, là những người rất giỏi và dễ thành công.

Vì thế song hành với các quan điểm nghệ thuật hiện đại, bỏ qua tính thực tế của nghệ thuật, mà chỉ chú trọng đến bản chất, tính chân thực của vấn đề nên quan điểm nghệ thuật hàn lâm vẫn là quan điểm chuẩn của các hệ tư duy con người. Và vì thế nó không làm mất đi những giá trị truyền thống mà mặt khác nó còn bồi đắp, cách tân nghệ thuật truyền thống dưới một hình thức thể hiện mới phù hợp với những nhu cầu mới của thời đại hơn.

Vì thế các nghệ sỹ ngày nay thường chọn cho mình một con đường có sẵn và họ theo đó mà đi tới luôn, điều này cũng giống như người ta làm nghệ thuật hàn lâm. Ở nghệ thuật hiện đại vì khó có khả năng tìm được một cái gì mới mẻ nên họ đành chấp nhận một trường phái có sẵn nào đó để nghiên cứu đi sâu. Còn người giỏi hơn một chút thì biết cách xào nấu, pha chế, thêm bớt làm sao cho ra một thứ koctai mới. Nhưng quan trọng nhất đó là khả năng thụ cảm chân thực của con người. Làm sao để sự pha trộn không trở nên lắp ghép và biên tập lại một cách hình thức.

Nhưng tất cả điều này với những cá nhân nghệ sỹ, bằng sự lựa chọn của mình. thì cũng là những nhân tố mờ nhạt so với phong cách nghệ thuật cộng đồng. Vì nhu cầu thưởng lãm nghệ thuật đơn thuần dưới một vài góc nhìn đơn thuần. nó sẽ bị khô cứng hơn là một thứ nghệ thuật cộng đồng, đa dạng và sống động hơn.

Tóm lại nghệ thuật tương lai của chúng ta sẽ được trình bày dưới hình thức là những sự kiện lớn mang tính thời sự của xã hội. Người nghệ sỹ như những động tác ngắn hay dài để tạo nên tiếng vang của sự kiện đó. Do vậy nghệ thuật lúc này mang tính cộng đồng rất cao, và sẽ được tiếp nhận ngay lúc đó. Từ đó, người làm nghệ thuật và cả công chúng thưởng lảm sẽ hiểu ra một vấn đề mới, mà nó đang là vấn đề thai nghén, ấp ủ của thời đại chúng ta. Vì nói cho cùng, tất cả những người đang sống trong thời đại nào, thì cũng mang theo mối quan tâm của thời đại đó trên các mặt như kinh tế, chính trị, nghệ thuật và mối đồng cảm này sẽ được gặp nhau trong những tác phẩm nghệ thuật cộng đồng, cống hiến cho mọi người tất cả vẻ đẹp trực tiếp của nó, điều đó sẽ làm thỏa mãn nhiều giác quan của con người cũng như về mặt tư tưởng.

PHẦN II

BA GIỚI HẠN CÔ ĐƠN

Bao giờ con có cánh

                  Andersen

 

Mẹ ơi xin đừng khóc!

Con chỉ ngủ mà thôi

Đôi mắt người ướp lửa

Dẫu chìm trong lệ trôi

Gió ơi! Đừng than khóc.

Ta chỉ ngủ mà thôi

Một đàn thần tiên bé

Lượn quanh ta sáng ngời…

Có thiên thần cánh sáng

Bay trong nhạc tuyệt vời

Hoa theo người buông thảm

Óng vàng và biếc tươi

Bao giờ con có cánh?

Mà bay cao trong đời

Thiên thần hôn con đấy

Xin đừng khóc mẹ ơi!

Tinh thần con người có thể xem như một thế giới rộng bao la, kỳ diệu. Và khi vị tổ sư thiền đạo Bồ Đề Đạt Ma đại khái có nói rằng: “Cái tâm con người mở ra có thể bao trùm vũ trụ, và thu lại nhỏ như đầu một chiếc kim”. Người phương đông thường quan niệm rằng: Thế giới bên ngoài có thể xem như là một đại vũ trụ, còn trong lòng con người lại được ví như một tiểu vũ trụ. Vì thế tâm lý con người là một thế giới siêu hình rất phức tạp, nó chứa đựng tất cả mọi thứ mà tạo hóa tạo ra kể kả thượng đế và các vị thần linh. Thông thường khi mắt ta không nhìn thấy được cái “hiện trạng chìm sâu” bên trong vật chất, thì lúc đó người ta lại nhìn bằng tâm lý để hiểu được các quy luật vận động của vật chất, mà từ đó khoa học ra đời song hành với lịch sử văn minh của loài người.

Ở mỗi người chúng ta đều có khả năng rèn luyện tinh thần phát triển tới mức vô hạn, mà như được chấp thêm đôi cánh như trong bài thơ của Andersen. Đó là đôi cánh của trí tuệ, của tinh thần chúng ta. Nó sẽ giúp ta bay cao, bay xa hay lao đao khốn đốn, là tùy vào cách ta định hướng như thế nào mà thôi. Như vậy trong bài thơ này, tại sao người mẹ lại khóc, lại lo lắng cho con mình như thế? Bà có biết đâu rằng thế giới của con bà có cả: “Một đàn thần tiên bé, lượn quanh ta sáng ngời… có thiên thần cánh sáng, bay trong nhạc tuyệt vời, hoa theo người buông thảm, óng vàng và biếc tươi”…

Thật ra hiện thực khách quan đang vận động và biến đổi không ngừng, đồng thời ở mỗi con người đều nhìn ngắm thế giới đó trong giới hạn “cái nhìn tâm lý của mình”. Điều này luôn được xác nhận bằng sự phản hồi từ tiềm thức đến ý thức và  dẫn đến hành động của chúng ta, từ đó mới xảy ra tình trạng phân biệt, nào là dị biệt và tương đồng vv. Vậy cho nên ta cần xem xét rõ thêm nguyên nhân sâu xa là ở đâu? Ở chính nơi sâu thẳm trong con người mình mà ta thường né tránh, và đi đổ lỗi cho những nguyên nhân bên ngoài. Cái đó chính là cô đơn vậy.

Cô đơn là gì?

Cô đơn là một nguồn lực chìm sâu bên trong đời sống của con người, nó như một khối lửa ngủ ngầm dưới dáy đại dương, lúc nào cũng cháy âm ỉ và cũng có khi phát hỏa dữ dội làm mặt biển cuộn sóng, nó là động lực thúc đẩy mọi họat động tâm lý của con người. Từ đó mà hình thành nên tính cách cũng như tâm thế của chúng ta.

Cô đơn là một lá bùa hai mặt mà thượng đế đã dán vào các giác quan của con người một cách may rủi, vì vậy con người muốn thoát khỏi cô đơn để được sống một cuộc đời an lạc hạnh phúc, thì tự mình phải lột bỏ lá bùa quỷ quái đó ra? Có nghĩa là con người phải biết ngừng sống cho các giác quan của mình. Điều này chắc có lẽ khó ai có thể làm được trừ phi các thiền sư, nhưng tại sao chúng ta phải làm thế ? Tạo hóa đã ban cho con người niềm kiêu hãnh để chúng ta đi qua cuộc sống này một cách vui mừng nhất? Vì cuộc sống trần gian có quá nhiều thú vui mà chưa chắc thần tiên có được…Và đó chính là cuộc đời của chúng ta! Nhưng trên con đường đời đơn côi đó, chúng ta còn có thể làm được một việc: Đó là sáng tạo, người ta nói sáng tạo là cách mà chúng ta thể hiện tình yêu cuộc sống của mình, cũng như là một cách đào thoát khỏi cô đơn hoặc để biết cách sống cùng với nó. Vì cô đơn là chất liệu của sáng tạo, là mồi lữa cho tình yêu, là vực thẳm cho sự sa đọa, vong thân của con người.

Thường thì các hiện tượng của cô đơn là những rung động phản hồi của xúc cảm, khi bản ngã của chúng ta phải từ bỏ một thói quen, hoặc bắt buộc chấp nhận một hoàn cảnh mới của tinh thần. Trong khoảng xê dịch đó, vì chưa kịp thích nghi nên nó tạo ra một nhịp điệu mất cân bằng của thần kinh, nhịp điệu đó có khi là căng thẳng liên tục, rồi sau đó chùng lại và tạo ra ức chế cảm xúc gọi là cô đơn. Người cô đơn lúc nào cũng buồn và cảm thấy như mình lẽ loi nhất trên đời, người ta buồn quá là yêu thương được hết, buồn là cái gì cũng làm được hết, buồn mà lên khơi rồi, chơi vơi, chới với tơi bời có chèo chóng gì cũng vậy thôi, cứ căng buồm lên cho lòng dậy sóng và cứ thế mà thẳng tiến cho nó đi tới luôn!..Giữa trùng khơi bão nổi có bến bờ gì đâu mà chờ, có hải đảo nào đâu mà đợi, lúc đó là lúc mình biết rằng chẳng thể mất thêm được nữa! nếu có gặp lại thì cũng như hai khúc gỗ chạm nhau trên sóng rồi mỗi người đi mỗi ngã mà thôi…Những nỗi buồn kiểu đó thường là do tác động bên ngoài, còn bản thân cảm xúc của con người là một dòng chảy không bao giờ ngưng nghỉ, nó như một con rắn hung dữ, có khi nó ngũ yên, mà có khi nó thức giấc kiểu như” người yêu tôi đến âm thầm dưới trăng” thì mệt mõi đi theo là cái chắc. Con rắn đó khi chạm vào mạnh hay nhẹ mà tự nó khơi gợi, rồi làm bùng lên ngọn lửa bên trong của con người, nguồn lửa đó nhiều khi thiêu đốt tâm can con người kéo dài rất lâu..và đến một lúc nào đó, tự nó trở thành quen thuộc như một lãnh địa riêng biệt. Vì vậy xét về cô đơn là ta như xét về chất thép chịu lửa được bao lâu trong những cái lò có nhiệt độ cở nào, cho nên cô đơn có thể chia ra làm ba giới hạn khác nhau mà ta có thể gọi tên theo thứ tự sau đây:

Cô đơn cánh đỏ

Cô đơn cánh trắng

Cô đơn toàn phần

Cô đơn cánh đỏ

Cô đơn cánh đỏ là loại cô đơn căn bản của con người, nó thường có ở đa số những người lao động vất vã, người có đời sống lao động sáng tạo, nhanh nhẹn hoạt bát và quyết đoán. Nếu biết gìn giữ và nuôi dưỡng loại cô đơn này, nó sẽ tạo ra ý chí vững mạnh, vì nó có khả năng điều chỉnh mọi tầng cảm xúc theo hoàn cảnh, môi trường hoạt động của con người trong mọi chiều hướng tâm lý khác nhau.

Cô đơn cánh đỏ là những xúc cảm mãnh liệt luôn tràn bờ, thường là những tạp niệm khởi sinh từ những va chạm đời sống, trộn lẫn những lo âu chưa giải quyết được từ bên trong, và trong quá trình thành hình, nó thường tạo ra một chuỗi âm thanh ngân vang và lẫn lộn nhiều thứ  màu sắc khác nhau, nó tạo nên một môi trường tình cảm đa âm sắc. Người cô đơn cánh đỏ dễ gần gủi và đầy thông cảm với người khác, họ luôn luôn có khuynh hướng bộc lộ tính chất tốt đẹp của mình, với mọi người và trong công việc, nhưng điểm yếu của họ trong thời đại ngày nay là thường bị loạn thông tin, vì họ quá hăng say chiến đấu nên bộ lọc thông tin của họ không giải quyết hết được, và điều đó không hề ngăn cản họ vẫn thành công trong xã hội.

Cô đơn cánh đỏ được ví như một thanh gươm sáng trong lòng con người. Đó là một trạng thái tình cảm tự nhiên mà ai cũng có, chứ không cần đến một khúc quanh, ngã rẽ nào để được phát hiện ra. Đó là thời kỳ đại bàng của tinh thần con người, nó dang đôi cánh rộng bay cao bay xa, nhưng cũng có thể xà xuống thấp để săn mồi…Vì tất cả những hoạt động đó là động lực thúc đẩy đầu tiên cho cả tiến trình tìm kiếm cái tôi của con người, cũng như bắt tay vào khai phá thế giới bên ngoài. Cô đơn cánh đỏ chứa nhiều sức mạnh trên đôi cánh của nó, trong một không gian rộng mênh mông của những ước mơ, hoài bảo lớn lao, danh giá. Người cô đơn cánh đỏ thường cảm thấy cuộc sống sần sùi, gồ ghề, nhưng họ vượt qua tất cả những trở ngại đó một cách dễ dàng.

Cô đơn cánh đỏ là bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ đầy thú vị và nồng nàn tin yêu, vì vậy nếu không có mặt nó trong cuộc sống, chúng ta sẽ buồn tẻ biết bao!

Khu vực họat động của cô đơn cánh đỏ rộng rãi thênh thang và nhiều gió bão mưa ngàn, nhưng đôi khi cũng có một chút phiêu phất trên cao và lao xao dưới thấp. Trong cái địa bàn của nó cũng có vài tên lính gác tha thẩn đâu đây. Người nào biết gìn giữ và nuôi dưỡng loại cô đơn này kéo dài qua tuổi bốn mươi thì chắc chắn người đó sẽ thành công trong cuộc sống tốt đẹp của mình, nhưng hãy nhớ rằng đừng để vướng vào một sự kiện bi thảm nào của tuổi trẻ, nó sẽ đẩy tinh thần con người lên tầng cô đơn thứ hai. Đó là tầng cô đơn cánh trắng nhiều khó khăn hơn.

Cô đơn cánh trắng

Cô đơn cánh trắng hay còn gọi là cô đơn trên cao, nó thường rơi vào những người sợ hãi cô đơn nhưng bị đẩy thẳng lên đây, hoặc những người bị bệnh lâu ngày không hoạt động, hoặc đọc sách quá nhiều không tiêu hóa được, hoặc những người vấp ngã rồi sau đó có khuynh hướng đồng cảm với bi kịch, lao vào bi kịch để vui thú và đồng thời tìm đường trốn thoát cô đơn. Đây là giai đoạn thử thách sống còn của tinh thần con người, nếu không biết điều chỉnh mà cứ để nó kéo dài suốt đời thì đời bạn sẽ thất bại ngay, hoặc không khéo bị đẩy lên tầng cô đơn cao hơn mà bạn chưa kịp hình thành tư tưởng cũng như dẹp bỏ những tạp niệm lung tung, thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn cho tương lai sắp tới của bạn. Ngược lại, nơi đây cũng là nơi còn đủ năng lượng cho một cú chơi dựng đứng cuối cùng, mà khi bạn đã chạm tới đỉnh của nó rồi, thì chẳng có gì ngăn cản được bạn sẽ sở hữu một món đồ quý giá, mà trong cuộc chơi, ai bỏ ra nhiều tiền hơn thì người đó được.

Cô đơn cánh trắng thường bắt nguồn từ những nguyên nhân bên ngoài tác động vào mà hình thành, trước giai đoạn bước hẳn vào lãnh địa riêng biệt của nó, con người đã trãi qua giai đoạn đau thương thử thách với những ám ảnh đen tối mịt mù…và dần dần nó cũng rõ ràng rồi có đường có lối hẳn hoi. Trong giai đoạn này, tinh thần con người luôn ngộ nhận với những loại giá trị gần như là bền vững, là mới mẽ, nhưng thật ra không phải vậy. Vì tất cả các cách tư duy trong giai đoạn này đều bị ảnh hưởng, và chia sẻ với những hoài nghi và mơ mộng theo kiểu để bù đắp tổn thất thế thôi. Vì thế nó không có thực và rất dễ thay đổi theo những hiệu quả tác động của môi trường xung quanh. Tâm lý của người cô đơn cánh trắng thường dễ biến thái thành những bông hoa đẹp, mà không có hương thơm. Đó là một dạng tình cảm có hiệu quả bề mặt rất cao và cũng rất phù hợp với  kiểu văn hóa tốc độ của thời đại mới. Như thời đại đang phát triển nhanh như ngày nay, thì cái gì cũng cần phải thay đổi…kể cả tình cảm của con người, nếu không thay đổi cho kịp với những hoàn cảnh mới của tinh thần…thì chắc chắn là sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc thích ứng với tinh thần của thời đại mới. Vì đó là những quyền lợi tinh thần của con người, mà khó lòng ai cũng có thể dứt bỏ ngay được.

Cô đơn cánh trắng là một vùng sương khói mơ hồ nhất, cạnh tranh nhất, và cũng nhiều tạp niệm nhất. Loại cô đơn này phát hỏa sáng tạo rất dữ dội, nhưng cũng dễ bị dập tắc nếu ta cảm thấy hoảng sợ bởi một điều gì đó. Đây là giai đoạn đổ vỡ của tinh thần con người, nếu biết chịu đựng vượt qua những khó khăn liên tục xảy ra trong giai đoạn này, mà chú tâm vào lao động sáng tạo thì sẽ đạt được những kết quả cao. Nhưng cũng đừng quan tâm quá đến những kết quả của mình đạt được trong giai đoạn này. Vì giai đoạn này có làm được gì đi nữa thì cũng làm cho vui mà thôi.

Người cô đơn cánh trắng là người làm xiếc trên sợi dây định mệnh của mình, họ sống như một diễn viên mà hành trang lên đường là quá nhiều an ủi, quá nhiều xa hoa của đời sống chất đầy mệt nhọc. Đây là giai đoạn bắt đầu thấu hiểu và trưởng thành trước những tổn thất do cái tôi đáng ghét gây ra, và cũng là lúc rèn luyện cho cái tôi vững mạnh hơn. Người cô đơn cánh trắng trong thời đại ngày nay, thường rất mơ hồ về thông tin, do lẽ khả năng xác nhận thông tin của họ không an toàn, vì họ luôn bị tác động của thông tin làm rối tung lên.

Khu vực hoạt động của cô đơn cánh trắng hẹp hơn cô đơn cánh đỏ và ở trên cao hơn một chút, trạng thái của nó đôi khi nhẹ tênh, lướt thướt nhiều hoa lá và không có gió, trong khu vực địa bàn của nó vắng teo, không có một tên lính canh nào, lúc nào bạn cũng đang chới với mà không biết vịn vào đâu…Và cũng chính lúc này là lúc chúa chìa tay ra với bạn. Đa số mọi người được cứu thoát là nhờ bàn tay của chúa chìa ra đúng lúc này, nếu không thì cũng đi tìm một chổ dựa tinh thần vào một người thành công khác, hoặc đắm chìm trong men rượu say sưa, hoặc lánh đời bình yên một cách vô vi vô vị thảnh thơi một mình, hoặc lúi húi cặm cụi làm việc suốt những ngày còn lại của cuộc đời v v…Nhưng vẫn còn một số ít người thì tiếp tục hành trình dấn thân để tự mình biết được cuộc đời còn vui tới đâu và còn buồn tới đâu nữa! Đó là tầng cô đơn thứ ba: Gọi là tầng cô đơn toàn phần.

Cô đơn toàn phần

Cô đơn toàn phần hay còn gọi là cô đơn đóng kín. Đó là một thế giới đóng kín toàn phần, một thế giới riêng biệt và nén chặc, là cái lối đi lạc đường sương mù và không còn một con đường nào nữa để lên xuống, để quay lại hay trở về nơi có thực. Như một người tù đã được đưa lên một chiếc xe bít bùng dẫn về nơi đóng đanh trên cây thập giá đời, khi muốn di chuyễn thì nó phải mang vác cả cái mai vàng đi theo như một nấm mồ, như một con rùa ngơ ngác giữa cuộc đời. Những người rơi vào loại cô đơn này thường là phải chấp nhận chứ không bàn cải gì nữa.

Cô đơn toàn phần thường được tạo ra như một định mệnh với quá nhiều rủi ro hơn là may mắn. Nguyên nhân sâu xa là do khi mang thai, người mẹ đã bị mất ngũ quá nhiều, hoặc đang bị bệnh về tinh thần vv. Nhưng đồng thời cũng do hoàn cảnh ra đời đã gặp nhiều bất hạnh, như bị bỏ rơi lại lớn lên trong một môi trường tình cảm khắc nghiệt, lẽ loi, bơ vơ lủi thủi một mình, hoặc cũng do nhiều cú ngã liên tục trong đời nên tâm lý luôn được nâng cấp lên tới tầng cô đơn này…Người ta ghi nhận rằng: Chúa Jesus khi vừa lọt lòng đã rơi vào trạng thái đóng kín này, Đức Phật Thích Ka khi lên ba tuổi lúc ngồi chơi trong vườn, và nhà tiên tri Mohammed thì khoảng bảy tuổi khi ông biết mình là đứa con rơi…Ở Việt Nam: Bùi Giáng” tâm khai từ thuở mười ba”, Trịnh Công Sơn thì mười lăm tuổi khi cha ông mất và phải vào Sài gòn sống cô độc một mình, Tản Đà thì khoảng mười tám tuổi khi thất tình con gái quan tổng đốc, và hôm nay có nhà văn trẻ Nguyễn Thế Hoàng Linh hình như nếu không bị cản trở bởi quảng cáo quá nhiều, thì anh ta rơi vào tình trạng này có thể dưới hai mươi tuổi vv Những người này do may mắn và còn nhờ vào nổ lực bản thân để dành lấy cuộc sống mà ngày nay người đời biết đến như những thánh nhân hoặc thiên tài, còn những người rơi vào cô đơn đóng kín, từ hai mươi đến ba mươi tuổi, thì là người có chút hiểu biết về tâm lý mà thôi, nếu cố gắng phấn đấu trọn đời, thì cũng coi như cuộc đời tạm ổn, và có chút danh tiếng. Còn những người rơi vào giới hạn này, vào khoảng trên năm mươi tuổi, thì là người quang minh chính đại, có địa vị cao trong xã hội, và cuộc sống rất hạnh phúc.

Người cô đơn toàn phần thường nhìn cuộc sống có vẻ phiến diện và chủ quan, nhất là trong thời đại ngày nay. Họ rất dễ bị thiếu thông tin vì cách nghĩ của họ luôn theo một chuỗi suy luận hệ thống chứ khó chấp nhận một hiện tượng khách quan nào có thể xảy ra, vì lúc nào cũng trong tình trạng đóng kín nên họ có khuynh hướng cảm nhận vấn đề  hơn là thu nhập dữ liệu rồi phân tích, nhưng họ có khả năng thấu hiểu rất nhanh, bằng những hiểu biết và suy luận của mình.

Người sống cùng loại cô đơn này, như một kẻ lạ của đời sống, như ở trọ chốn trần gian, lúc nào bên tai cũng nghe mênh mang mênh mang một thứ âm thanh phù vân yên tử…Những người rơi vào loại cô đơn này thường không phân biệt được đâu là bất hạnh, đâu là hạnh phúc, hay nói khác hơn là họ có khuynh hướng đi tìm hạnh phúc nơi tận cùng của bất hạnh và ngược lại… Cô đơn toàn phần là chốn dung thân đầy ảo tưởng và nhiều mơ mộng, cứ thế nó miệt mài với ngày tháng buông xuôi rất tự nhiên. Loại cô đơn này thường làm con người thụ động trước mọi nhẽ đời, những suy nghĩ của họ luôn là những ước lệ cho cuộc sống hiện thực, và để lại một chuỗi phóng xạ được kích hoạt từ những sự kiện, hiện tượng của cuộc sống.

Người cô đơn toàn phần ở giai đoạn đầu, thường bị triệt tiêu mọi phản xạ, phản ứng cần thiết với cuộc sống, nhưng chính trong lúc này…vì bị nhốt kín bưng do chẳng thấy ai cả nên họ thấy được mình, mà nếu không thấy mình thì thấy ai bây giờ, suốt ngày cứ soi mãi thì thấy thôi. Rồi sau đó mới bước ra ngoài, nhìn cây cỏ, mây gió, và nhìn lâu thì thấy được người, và còn biết nghe tiếng chim hót, là những âm thanh tao nhã chân thực nhất, thay cho những tiếng ù ù vọng mãi suốt ngày đêm của ngày hôm qua.

Người nằm trong loại cô đơn này thường có chung một cái đầu, là nghĩ miên man mãi suốt ngày đêm, nếu họ không có việc gì để làm, thì luôn nghĩ bậy bạ trong đầu không bao giờ ngừng, kể cả khi ngũ. Đã vậy còn vẽ lên cả một cái chân dung của chính mình cho người ta nhìn thấy thì thật không nên. Nhưng cũng có những người tuyệt vời ngày xưa như Lý Bạch, trước khi bị xử giảo ông liền ứng tác một bài thơ như thần thế là thoát nạn, Nhưng thực ra tâm cảm ông đã làm sẳn bài thơ này rồi, và ông cũng biết rõ ông sẽ gặp nạn, nên khi nguy cấp, ý thức ông chỉ cần đem ra một tí là xong. Nhà hóa học Mendeleep nằm mơ thấy bản tuần hoàn các nguyên tố hóa học, các nhạc sỹ thì nằm mơ thấy nhạc, họa sỹ mơ thấy tranh và chỉ cần thức dậy chép lại thế là xong… Quả nhiên thượng đế luôn giám sát chế độ lao động của những người này rất chặc chẻ, và bắt họ không ngừng làm việc kể cả khi họ bị đánh thuốc mê đi chăng nữa.

Người cô đơn toàn phần được sinh ra trong gia đình giàu sang hay nghèo khổ gì cũng vậy thôi, khi cơn đau lên đầy thì cũng xây xát như nhau cả, cũng phải khốn khổ một mình, tự mình thu xếp lấy sự tồn tại của mình với mọi vật xung quanh bằng cách bắt các đồ vật làm quen với mình, cùng chơi chung với mình như bạn bè, mà đã là bạn bè là không phân biệt. Vì ở đây sự phân biệt đã bị đánh mất rồi…

Người cô đơn toàn phần thường thích chơi trò chơi độc sáng một mình riết rồi cũng chán, hoặc cứ nhìn ngắm mãi mỗi ngày đi qua như nhìn ngắm một pho tượng riết rồi cũng chán…Hoặc cứ thích sống một mình hoài trong chốn u mê mộng mị thì cũng đâm ra nghiện cảm giác này và trở thành thói quen. Nếu hoàn cảnh quá chìu chuộng, họ dể trở nên hư hỏng để cho các thói quen canh giữ tâm hồn mình như những khu quy hoặch tình cảm dọn sẳn, và mỗi ngày sương khói lại ít đi, thì dĩ nhiên nơi đây sẽ trở thành nhà tù hợp pháp nhất. Lúc đó là lúc tinh thần cần đến sự giải trí suốt ngày, quanh năm, vô vị một cách bác học. Vì mọi giá trị cao thấp, tốt xấu ở đời không quan trọng nữa, họ chỉ nói: “Ôi mặc kệ chúng nó làm gì thì làm, ta cũng biết hết rồi”… Vì khi người ta còn đủ sức tưởng tượng ra nhiều trò rắc rối, thì đó cũng là chất dầu bôi trơn cho động cơ tư duy của con người. Nhưng con người không cần thiết phải tư duy nữa có lẽ sẽ hạnh phúc hơn, là lúc nào cũng suy nghĩ quá vất vã thế này mà nghĩ mãi vẫn không ra.

Người nằm trong hoàn cảnh cô đơn này luôn tự mình ý thức rằng, mọi ràng buộc của đời sống chỉ là mơ hồ, và phải biết chắc lọc, lựa chọn để học tập được nhiều hơn, vì nếu đã chấp nhận điều gì đối với bản ngã của mình thì mặc nhiên nó trở thành một thứ của cải riêng. Vậy cho nên nếu không khéo mang về một túi heroin thì bản thân mình cũng nguy mà còn làm liên lụy tới người khác. Vì thế mỗi chúng ta đều cùng sống chung trong một xã hội con người, đã được thỏa thuận ở mức giới hạn của hiến pháp và luật pháp, nơi mà con người luôn hướng tới là tự do, dân chủ văn minh và hạnh phúc. Nhưng đôi khi để cải thiện bản thân, thì mỗi người đều có những điều chỉnh và quyết định riêng cho mình, để tồn tại, để được sống hạnh phúc, và cống hiến cho xã hội.

Kết luận

Đã là con người thì chẳng ai mà không cô đơn, vì ngày xưa nơi vườn địa đàng, chàng Adam và nàng Eva đã trộm ăn trái cấm nên cảm thấy thích gần gủi nhau, rồi từ đó con người có tội. Gọi là tội tổ tông và thượng đế bảo rằng con người đáng bị đày đọa ở chốn trần gian cho khổ sở chết luôn, và đồng thời trái tim con người đã biết yêu thương cũng như đau xót, từ đó mà sinh ra cô đơn.

Cô đơn là một diểm phúc trời ban cho con người, nhưng các ác thần cũng xí phần trong đó. Chúng đưa ra những ly rượu mạnh, để chuốc lấy cuộc đời bạn, nếu bạn có thể lựa chọn. Vì thế loài người mới sinh ra các vị bác sỹ để chữa trị căn bệnh này. Đó là những nhà sáng lập tôn giáo và cả đức tin. Nhưng đức tin đôi khi nằm trong lòng con người chưa đủ và họ cần dựa vào một cái khác mơ hồ hơn nằm bên ngoài sự hiểu biết của con người. Đó chính là niềm an ủi, niềm vui vĩnh hằng hay là khát vọng sống mà người ta có thể nghĩ theo nhiều cách, và cũng như cô đơn. Chúng ta có quyền hưởng thụ nỗi cô đơn của mình kiểu nào cũng được miễn là cảm thấy hạnh phúc là được rồi, nhưng hãy lưu ý đừng quá làm phiền người khác mà thôi….

Nhưng thời đại ngày nay, người ta tiêu xài cô đơn một cách phung phí khi tuổi còn trẻ gần như là một cái moden, để rồi bày biện ra đủ thứ trò buồn cười ngớ ngẫn…Vì khi họ nhìn thấy đồng tiền sáng lóa, có nhiều sắc cạnh khó gần, nhưng thật ra nếu biết nhìn đồng tiền bằng nhiều cách khác nhau, bạn sẽ phát hiện ra trong đó có cả một thế giới lung linh, đầy màu sắc, mà hấp lực của nó không thể giết chết nổi cô đơn, mà còn làm cho nỗi cô đơn của chúng ta thoải mái hơn một chút, chứ chẳng có hại gì.

Cô đơn đôi khi cũng được xài như một món hàng xa xỉ, một thứ trang sức để giao tiếp nơi những bữa tiệc tình yêu của con người. Người ta cô đơn quá đâm ra si mê lú lẫn, bướng bỉnh ngang tàng, cứng đầu cứng cổ và hay có hành động phản kháng như một tệ nạn của xã hội. Cô đơn đau khổ cũng sinh ra ích kỷ hẹp hòi và cả những tên tội phạm…Và cô đơn làm cho con người dể thương đáng yêu hơn, và cũng nồng nàn hơn…nhưng đôi khi cũng làm cho ta thấy dễ ghét, bực mình. Người cô đơn bất chợt chạm tới hạnh phúc thì cảm thấy nó to lớn gấp ngàn lần người thường, đến nỗi họ lầm lẫn cả hạnh phúc và đau khổ…Và cứ vậy mừng rỡ lao vào rồi lại cô đơn, bi kịch. Cô đơn cũng làm cho người ta trở nên thông minh khác thường, bao dung rộng lượng, là tùy ở cách ta sử dụng cô đơn như thế nào mà thôi.

Người cô đơn quá thì khao khát được sống làm người đàng hoàn tử tế  như người ta, hoặc muốn đập phá cho tan nát cuộc đời của mình ra luôn. Vì họ là những người mang nặng mặc cảm lẽ loi tự ty tự kỷ. Nhưng cuộc đời luôn khó khăn là vì số đông của cuộc đời này, thường đứng ở cái tầng trên kia. Họ chỉ biết tìm đủ mọi cách ngăn cản không để cho một người nào đó suy nghĩ và hành động không theo ý mình, nhưng họ có biết đâu nguyên nhân là ở chổ người đó không thể suy nghĩ như họ được. Họ không hiểu nổi người này nói năng cái gì vì thấy thật khó ưa, dễ ghét…Với một số đông áp đảo như vậy, những người rơi vào tình trạng cô đơn này thì lại càng cô đơn hơn, vì có thể hiểu lầm rằng họ hoàn toàn không thể nào hòa nhập với cuộc sống cộng đồng.

Thực ra đến một lúc nào đó thì chúa cũng mở cửa cho đi mà thôi. Vì khi người đóng cửa này thì đồng thời người cũng mở cửa khác. Nếu ta còn đủ lòng tin ở người, mọi sự tranh thủ, tính toán, hay không tính toán gì thì cũng coi như đã tính toán hết rồi…Vì những người rơi vào loại cô đơn này lúc nào cũng không biết đếm, và cũng không thấy cái gì là xấu cả, nên họ cũng không biết giận ai…thì ra đó cũng là cách nhẹ nhàng để mà sống.

Ở một số người, cô đơn được ví như những khẩu đại bác trên đồi cao suốt ngày cứ bắn ầm ầm liên tục xuống cánh đồng, mà thực ra dưới đó chẳng có gì, đến khi hết đạn thì mới hiểu mình sai lầm và khó có thể quay lại được. Cô đơn là phải biết bơi tới bờ bên kia” đáo bỉ ngạn” mới thấy được cô đơn xinh đẹp như thế nào? Chứ cô đơn mà cứ đi tìm đường chạy trốn mãi, hoặc lao vào những cuộc vui chơi đời sống để khỏa lấp thì chỉ khuây khỏa được trong chóc lát, nhưng cô đơn ngày một nhiều hơn và có thể dẫn đến tuyệt vọng vì không hiểu biết nguyên nhân nằm ở đâu.

Cô đơn còn được sinh ra do mâu thuẫn nội tại của con người mà điều này là do những luật lệ, giới hạn hẹp hòi của con người đặt ra để khống chế cảm xúc không cho phép nó đi thẳng tới một cách tự nhiên, hoặc sự đòi hỏi của bản năng về dục tính, hoặc do sự tranh chấp của lý trí và tình cảm… và còn do sự cám dỗ vô hạn của cái đẹp, của sự được thỏa mãn mọi bề trụy lạc rồi mà cũng còn bị cô đơn…

Cô đơn còn được người ta dùng như một nhu cầu giải trí cho những người đoan chính nhất, chung thủy nhất với gia đình mình. Họ luôn nuôi dưỡng nỗi cô đơn của mình, bằng những hình ảnh của quá khứ mà họ cứ tưởng là thiên đàng, là bất tử trong long. Nỗi cô đơn này còn khổ  hơn khi chuyện tình duyên thời tuổi trẻ không thành, và từ đó họ xây đắp mỗi ngày thêm cho nó như một nấm mồ vĩ đại, hoặc thành một thứ cung điện nguy nga tráng lệ, để mỗi ngày rảnh rổi thì họ chui vô đó vui chơi thỏa thích một mình. Người ta nói một trái tim tan nát thì khó có thể yêu thương được nữa? Vì nó càng đổ vỡ thì nó càng muốn hàn gắn lại cho nhanh hơn, nên người ta yêu nhau liên tục không nghỉ. Mọi sự bù đắp cho nỗi cô đơn trong lúc này, bằng tình cảm của người khác sẽ trở nên dư thừa, khi bản thân nó đang phình nở lên, nới rộng ra thì  ta có đổ thêm vào cho nó bao nhiêu thì nó cũng chảy tràn ra ngoài hết…Vì tình yêu đã mất kia nó vẫn còn đẹp đẽ quá, hy vọng quá và nó vẫn còn là lựa chọn số một cho mình. Nỗi luyến tiếc càng nhiều thì nỗi cô đơn càng trỉu nặng. Thật đáng thương cho những người đang kêu đòi yêu thương mà không được!

Cô đơn có một sức quyến rũ rất diệu kỳ hơn bất cứ điều gì trên đời này. Cô đơn là chén thánh hay là một liều thuốc độc, nếu bạn biết cách lựa chọn, cô đơn làm tiêu hủy mọi kiến thức hiểu biết của con người để được nhẹ nhàng hơn. Cô đơn dẫn ta đi lên núi cao, vực sâu, vào những nơi nguy biến nhất. Cô đơn là lá bùa hộ mệnh cho những người dũng cảm, là lưỡi hái tử thần cho những kẻ yếu đuối, là ngọn gió mênh mông trên thảo nguyên làm mơ màng say đắm cả những con thú dữ…cô đơn là bài hát thăm thẳm trong lòng người…

Cuộc đời của mỗi con người như một chiếc lá quay cuồng trong cơn bão của những thú vui đời sống bất tận… Nỗi cô đơn là nỗi bất hạnh hay chỉ để mua vui một vài trống canh là tùy nhu cầu cũng như tùy cách ứng xử của ta với nó. Nỗi cô đơn khi chín đỏ sẽ khơi thắp từ tâm và bắt đầu biết yêu thương, cũng như có được sự bình an trong lòng. Thật ra đó là nơi nương náu cuối cùng, mà lúc nào ta cũng muốn bỏ đi cho rảnh…Và khi bạn quay về ngôi nhà cũ, bạn sẽ thấy ngỡ ngàng, vì nó chẳng hề thay đổi theo năm tháng, nó vẫn như xưa và đầy trìu mến! Những vì tinh tú trên cao, hằng đêm vẫn thắp sáng cho bạn, nhìn thấy bầu trời trong đêm xanh mướt, nơi đó phản chiếu hình ảnh nguy nga của cuộc sống tươi đẹp của chúng ta đang sống. Đó chính là một cuộc sống bình thường dưới ánh vàng rực rỡ của mặt trời chiếu tỏa./.

                                                                                   Thủ Đức 3. 2005

 

 

 

                SÁCH THAM KHẢO

  1. Bochenki – Triết học phương tây hiện đại, NXB. CaDao, Sài goon 1969
  2. Cao Xuân Huy – Tư tưởng phương đông gợi những điểm nhìn tham chiếu, NXB Văn Học Hà Nội 1995
  3. Bùi Thanh Quất, Vũ Tình, Bùi đăng duy và Nguyễn Tiến Dũng –  Lịch sử Triết Học, NXB. Hà Nội 1994
  4. Lưu Phóng Đồng – Triết học phương tây hiện đại, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1994
  5. Doãn Chính – Đại cương triết học phương đông, NXB. Giáo dục, Hà Nội, 1994
  6. C.Mác và Ăngghen, (Toàn Tập) NXB chính trị quốc gia 1995
  7. Doãn Chính – Đại cương triết học Trung Quốc, NXB chính trị quốc gia 1997
  8. Trần trọng Kim, Việt Nam sử ký, xuất bản 1954
  9.  Nguyễn Duy Cần, Lảo Tử - Đạo đức kinh, NXB Văn Học, Hà Nội, 1992

10.  Minh Chi, Hà Thúc Minh – Đại cương triết học phương đông. Tủ sách đại học tổng hợp TP. HCM, 1993

11.  Will Durant. Những nền văn minh thế giới – NXB Văn hóa thông tin Hà Nội, 1997

12.  Nguyễn Hiến Lê. Khổng Tử, NXB Văn Hóa Hà Nội 1991

13.  Nguyễn đăng Thục. Lịch sử triết học phương đông(Bộ 5 tập)

14.  NXB, TP.HCM, 1991

15.  Thái Ninh. Triết học Hy Lạp cổ đại. NXB sách giáo khoa Mác – Lê nin, Hà Nội 1987

16.  Trần Trọng Thêm. Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB TP. HCM 1996

17.  Vũ Tình. Đạo đức học phương đông cổ đại, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1998

18. Will Durant, Lịch sử văn minh Ấn Độ (Nguyễn Hiến Lê dịch)NXB Văn Hóa Hà Nội, 1996

19.  Will Durant, Lịch sử văn minh Trung Hoa (Nguyễn Hiến Lê dịch)NXB Văn Hóa Hà Nội, 1997

20. Bill gates & Collins Hemingway. Tốc độ tư duy, NXB Trẻ 2002

21.  Jonathan Galin. BILL GATS Con đường đến tương lai NXB Trẻ 2001

22.  Trần Văn Thiện, Thái Trí Dũng, Vũ Thị Phượng, Tâm lý học. Tủ sách đại học kinh tế TP, HCM..

23.  Phan Thị Kim Ngân, Tâm lý học đại cương. Xuất bản 1997

24.  Jack Trout, Sự Thông thái của một vị thần (Đặng Xuân Nam, Nguyễn Hữu Tiến dịch)NXB Thống kê 2004

25.  Bùi Đăng Duy, Nguyễn Tiến Dũng. Lược khảo triết học phương tây hiện đại, NXB Chính trị quốc gia 2003

26.  Hà Thiên Sơn. Lịch sử triết học, NXB Trẻ 1999

27.  Edward De Bono. 6 chiếc mũ tư duy- phương pháp tư duy năng động và hiệu quả. Xuất bản năm 2003

28.  Charles Darwin. Nguồn gốc của muôn loài, NXB Văn hóa thông tin – 2006

29.  Bùi Đăng Duy, Nguyễn Tiến Dũng. Lịch sử triết học phương tây hiện đại. NXB tổng hợp TP. HCM – 2005

30.  B.R Hergehahn. Nhập môn lịch sử tâm lý học, người dịch Lê Văn Hy

31.  Chandradhar Sharna. Triết học Ấn Độ.(Người dịch: Nguyễn Kim Dân, Phạm Ngọc Đỉnh.) NXB tổng hợp TP.HCM.

32.  Spalding. Hành Trình Về Phương Đông, Người dịch Nguyên Phong.

33.  Nguyễn Hiến Lê. Khổng Tử, NXB Văn Hóa, Hà Nội – 1991

34.  Nguyễn Hiến Lê. Lão tử – Đạo đức kinh, NXB Văn Hóa – 1998

35.  Nguyễn Duy Cần. Phật Học Tinh Hoa, NXB TP. HCM

36.  Nguyễn Huy Hiệu. Con đường Sáng tạo,  NXB Trẻ – 2001

37.  John Griffiths Pedley. Mỹ thuyật Hy Lạp Và Khảo cổ(Người dịch: Phạm Thiếu Hương, Huỳnh Ngọc Trảng – NXB Mỹ Thuật.

38.  Narada, Thera. Đức Phật và Phật pháp. Phạm Kim Khánh dịch – 1998

39.  Kinh Thánh – Cựu ước và Tân ước, chịu trách nhiệm xuất bản: Võ Nguyên, NXB Thuận hóa

40.  Kinh Lăng Nghiêm. Thích Duy Lực dịch và lược giải, do thành hội phật giáo TP. HCM ấn hành 1993

41.  Lưu Phóng Đồng. Triết học phương tây hiện đại, người dịch: Phạm Đình Cầu. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1994

42.  Hoàng Tuệ.  Vấn đề chuẩn ngôn ngữ qua lịch sử ngôn ngữ học. NXB Giáo Dục – 1993

43.  Mạnh Tử – Linh hồn của nhà nho, Trần Quý Sơn, Trần Viết Hùng biên soạn, NXB Đồng Nai – 1996

44.  Hàn Phi Tử – Sự phát triển của tư tưởng pháp gia, Hàn Thế Chân, Trần Kiết Hùng biên soạn, NXB Đồng Nai – 1996

45.  Thu Giang – Nguyễn Duy Cần. Phép giành chiến thắng theo Tôn Tử binh pháp, NXB Thanh Niên – 2001

  1. 46.   Giang – Nguyễn Duy Cần.  Chu dịch huyền giải – NXB TP. HCM – 1996

47.  Lịch sử thế giới( Bộ 2 quyễn) Nguyễn Hiến Lê – Thiên Giang biên soạn, NXB Văn Hóa – 1999

48.  Hê Ghen, Mỹ học(Bộ 2 quyễn) Phan Ngọc biên dịch. NXB Văn Hóa 1999

49.  Văn học hậu hiện đại thế giới – Những vấn đề lý thuyết, Đoàn Tử Huyến, Lại Nguyên Ân biên dịch. NXB Hội nhà văn – Trung tâm văn hóa đông tây 2003

50.  Thích nhất Hạnh, Kinh Kim Cang – Gươm báu chặc đứt phiền nảo, NXB văn hóa Sài Gòn 2006

51.  Fritjof Capra, Đạo của vật lý – Một khám phá mới về sự tương đồng giữa vật lý hiện đại và đạo học phương đông. Nguyễn Tương Bách biên dịch. NXB Trẻ 1999

52.  101 triết gia. Mai Sơn biên soạn, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính, NXB Tri Thức 2007.

53.  Albert Einstein. Thế giới như tôi thấy. Đinh Bá Anh, Nguyễn Vũ Hảo, Trần Tiển Cao Đăng dịch, Bùi Văn nam Sơn hiệu đính. NXB Tri thức 2006

54.  Jean Guitton và Grihka Bogdanpv-Igor Bogdanov. Thượng đế và khoa học. Người dịch: Lê Diên. NXB Đà Nẳng 2002…Và một số sách khác như Karasutra đã nói như thế, Buổi hoàn hôn của các thần tượng…Lược sử thời gian (vật lý thiên văn) Thiền luận của Suzuki, Albert Einstein - Cuộc đời và sự nghiệp vv…

 

Hà Hùng

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Từ khóa: n/a

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

Trang chủ  |  Giới thiệu  |  Tin tức sự kiện |  Thông báo  |  Văn bản pháp Luật  |  Cư sĩ Phật tử  |  Gia đình Phật tử  |  Tìm hiểu Phật giáo  |  Pháp âm  |  Đời sống  |  Từ thiện |  Gửi bài viết
______________________________________________________________________________________________________________________________________________

Quý vị vui lòng ghi rõ nguồn Phattu.vn khi phát hành lại nội dung từ trang web này