Trí Tuệ Phật - Phật Giáo Việt Nam
07:48 +07 Thứ sáu, 10/05/2024

Trí Tuệ Phật

Thứ bảy - 23/06/2012 00:32
(HDPT) - Với sự phát triển văn minh hiện đại của khoa học kỹ thuật và sự tiến hoá không ngừng hoàn thiện của loài người, vì vậy, trong quá trình tiến hoá liên tục của loài người điển hình thành nhiều nền văn hoá văn minh tiến bộ, các tôn giáo...
 
 
 
 
 
 
 
 
TRÍ TUỆ PHẬT
 
 
 
Lời giới thiệu
 
 
Các nền tôn giáo trên thế giới đều có tác dụng giúp ích cho con người hướng thiện, nói cách khác con người được thăng tiến nhân bản là nhờ vào những giáo lý, nguyên tắc, đạo lý, phương pháp trong các nền tôn giáo, nhưng cảnh giới, phương thức hiệu quả đạt được hiểu biết trí tuệ của các nền tôn giáo có khác nhau và tuỳ thuộc vào nguyện vọng, mức độ tu hành các công đức của mỗi người. 
Cuốn sách “Trí tuệ Phật” nói lên những trạng thái của tâm hồn con người từ cảnh giới hiểu biết trí tuệ cao đẳng nhất, đó chính là cảnh giới của chư Phật Như Lai, Phật tính, trí tuệ Phật cho đến các cảnh giới thấp nhất, đó chính là những tâm xấu tà ác. Từ đó giúp ích cho chúng ta hiểu thấu được những nguyên tắc, đạo lý, phương pháp cơ bản nhất, để tu hành các công đức được thành đạt viên mãn những cảnh giới hiểu biết trí tuệ Phật và buông bỏ những cảnh giới của tâm xấu tà ác.
Chúng ta muốn tiến hoá thì cần học tập Phật pháp, Phật Hoàng Trần Nhân Tông, làm theo tấm gương Tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh, cũng như các nền tôn giáo khác trong nước và trên toàn thế giới, tu hành các công đức trong Phật giáo đối với việc tu thân thì tuân theo Tam phước, Tam học “Giới Định Huệ”, còn đối nhân xử thế với mọi người trong xã hội theo Lục hoà kính, giúp đỡ mọi người theo Lục độ vạn hạnh và giữ gìn tâm thanh tịnh để hành đạo theo Mười đại nguyện vương của Bồ Tát Phổ Hiền. 
Trong ba đại tạng kinh và mười hai giáo trong Phật giáo thì Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật, được giới thiệu là vua trong các bộ kinh, nhất thừa trong nhất thừa và cũng là bộ kinh được mười phương ba đời chư Phật Như Lai gia trì trợ niệm cho chúng ta. Nói cách khác tất cả mười phương chư Phật Như Lai đã giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói ra vô lượng pháp tạng, kinh giáo nhưng ý nghĩa nội dung thì cũng không vượt quá ra ngoài ý nghĩa nội dung của Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật. Trong thực tế Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật giúp ích được cho nhiều người tin ưa Phật pháp, “Tín Nguyện Hạnh” theo Phật pháp và có được chân thật nhiều thành tựu chứng đắc đạo quả giải thoát sinh tử luân hồi chứng nhập Niết bàn. 
Tác giả đã nhân chân được tinh thần của Phật giáo
Ngày 28 tháng 03 năm 2012
Pháp Chủ Hội Phật Giáo Việt Nam
Hoà Thượng: Thích Phổ Tuệ
Đã ký
 
 
 
Lời mở đầu 
 
 
Với sự phát triển văn minh hiện đại của khoa học kỹ thuật và sự tiến hoá không ngừng hoàn thiện của loài người, vì vậy, trong quá trình tiến hoá liên tục của loài người đã hình thành nhiều nền văn hoá văn minh tiến bộ, các tôn giáo, triết học được thành lập và không ngừng được bỏ sung, có sự kế thừa học tập những giá trị tinh hoa tiến bộ văn minh hiện đại, có sự chon lọc, chuyển hoá, vận dụng, sáng tạo, hiểu biết trí tuệ giữa tất cả những nền văn hoá, tôn giáo để làm tăng thêm giá trị hiểu biết trí tuệ, chí thiện, chí công vô tư, cho nền văn hoá dân tộc bản địa. Sự tiếp thu kế thừa những giá trị tinh hoa tiến bộ văn minh hiện đại là tự nguyện, tự nhiên theo đúng quy luật tiến hoá của nhân loại, để thích nghi mọi hoàn cảnh sống của con người, được hoàn thiện tốt đẹp hơn, mà không làm thay đổi, mất đi bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam anh hùng, đã được hun đúc, kế thừa những giá trị tinh hoa đa dạng, tiến bộ, văn minh, hiện đại của lịch sử bốn nghìn năm dựng và giữ nước, cũng như sự tiếp thu, chuyển hoá, vận dụng linh hoạt có chọn lọc những giá trị tinh hoa tiến bộ, văn minh, hiện đại của nền văn hoá nhân loại trên toàn thế giới. 
Phật giáo là nền văn hoá giáo dục trí tuệ cao đẳng, chí thiện, chí công vô tư, trong đó có các quy luật, đạo lý nhân quả, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới và nói được chân tướng của tất cả những sự vật, sự việc hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, đều là những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng. Tức là nói chúng ta đều do nhân duyên quả báo sinh ra, đều có quyền bình đẳng và đều có Phật tính, đều được thành Phật trong tương lai. Quy luật nhân quả cho chúng ta thấy, khi chúng ta tạo nhân chính thiện thì được quả báo chính thiện, còn khi chúng ta tạo nhân xấu tà ác thì sẽ bị quả báo xấu tà ác, không ai có thể thay đổi được quy luật đó. Có những quy luật sịnh trụ dị diệt, thành trụ hoại không, tứ diệu đế, mười hai nhân duyên, mười tám giới, sinh lão bệnh tử, bát chính đạo và 8.400 pháp môn, giúp ích bình đẳng cho chúng ta có được chân thật lợi ích hiểu biết trí tuệ cao đẳng, công đức, phước đức và hưởng các quyền được sống tự do, mưu cầu hạnh phúc, bình yên. Quyền được bình đẳng học Phật tu pháp để giải thoát sinh tử luân hồi được minh tâm kiến tính thành Phật.
Như vậy, Phật giáo là nền văn hoá giáo dục nhận thức hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chí thiện, chí công vô tư, phù hợp với nền văn hoá giáo dục truyền thống dân tộc Việt Nam anh hùng và của cả nhân loại trên toàn thế giới trong hiện tại và tương lai, mà không phân biệt tôn giáo, đẳng phái, dân tộc, pháp giới. Tất cả mọi người đều được bình đẳng học tập, hội nhập, kế thừa những tinh hoa tốt đẹp của nền văn hoá giáo dục đó và được hưởng chân thật lợi ích hiểu biết trí tuệ, công đức, phước đức, cuộc sống được ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. Chúng ta muốn xây dựng con người mới tiến bộ của nền văn hoá giáo dục Phật giáo và truyền thống văn hoá dân tộc, đó chính là con người mới có đầy đủ đức tính tốt đẹp, khiêm tốn, giản dị, cần kiệm, liên chính, chí công vô tư, phát được bồ đề tâm bền vững. 
Hơn nữa, Phật giáo là nền văn hoá giáo dục hoà hợp, đoàn kết, thống nhất trên mọi phương diện, về thời gian quá khứ không cùng, hiện tại, tương lai vô tận và không gian bao trùm rộng khắp các vùng miền, quốc gia dân tộc trên thế giới. Tất cả những thứ đó đều là một thể thống nhất, đồng nhất, nhân quả tuần hoàn không gián đoạn, giống như một đạo tràng lớn không cùng tận. ở trong đó tất cả chúng sinh khắp các pháp giới, cũng như mười phương ba đời chư Phật Như Lai, đều được giúp đỡ, thương sót, truyền đạo, giới thiệu chính pháp Phật pháp bình đẳng như nhau, không phân biệt. Vì chúng ta đều có chung một pháp thân, Phật tính, tri kiến Phật, trí tuệ Phật, chân như bổn tính, chân tâm, bản thể và đều được bình đẳng học Phật tu pháp viên mãn thành chư Phật Như Lai. Nhưng hiện nay do chúng ta bị mê si, mờ mịt, vô minh che lấp, chưa khôi phục chân tâm, nhưng nhất định trong tương lai, chúng ta quyết tâm tự giác học Phật tu pháp viên mãn, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. Từ đó có được sự toàn năng, toàn trí, để giúp đỡ, thương sót, giới thiệu Phật pháp bình đẳng cho mọi người trên thế giới được biết đến học tập, làm theo, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, quốc gia, dân tộc trên phạm vi toàn thế giới. 
Người viết với tâm trí thành cung kính mong muốn các bậc thiện tri thức quán xét toàn bộ nội dung của cuốn sách này, với mục đích hoằng dương chính pháp, lợi lạc chúng sinh. Chúng ta cùng ước mong xây dựng, phát triển sự hoà hợp của các nền văn hoá giáo dục, tôn giáo, triết học của quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới, với mục tiêu định hướng, vì thế giới hoà bình bền vững, tập trung dân chủ, đoàn kết, thống nhất, hợp tác bình đẳng cùng có lợi, về mọi mặt đời sống văn hoá xã hội, an ninh chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật của toàn nhân loại trên thế giới. Chúng ta bằng việc thực hành, tham cứu, quán sát, “Tín Giải Hành Chứng” Phật pháp chân thật, biết được cội gốc của tất cả những nền văn hoá giáo dục, tôn giáo, triết học đó, đều có chung một mục đính hướng thiện, giáo dục hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chí thiện, chí công vô tư, chí tình, chí lý, chí nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, điều đó thể hiện rất rõ ràng, minh bạch trong Phật giáo. 
Phật giáo có rất nhiều pháp môn tu hành các công đức với 8.400 pháp môn, trong đó đặc biệt có pháp môn quán tưởng, trong pháp môn Tịnh Độ tông gọi là quán tưởng niệm Phật, để trải sự luyện tâm, còn trong Thiền tông, thì đó là pháp môn thiền quán, hay còn gọi là tham thiền quán tưởng. Như vậy, chúng ta quán tưởng luyện tâm hay trải sự luyện tâm, phát được bồ đề tâm bền vững, để khôi phục chân tâm, trí tuệ Phật, pháp thân bằng cách quán tưởng chịu đựng thay cho tất cả những khổ đau, lo âu, phiền não, những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, cho tất cả nhân loại trên thế giới, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, đã tạo ra từ vô thỉ kiếp đến nay và tương lai. Chúng ta cũng quán tưởng tâm phát nguyện giúp đỡ, thương sót, truyền đạo, giới thiệu Phật pháp, cho tất cả nhân loại, chúng sinh được hiểu thấu Phật pháp từ đó buông bỏ những giả tướng, chứng nhập Niết Bàn, được hưởng mọi điều tốt đẹp cực lạc. Chúng ta muốn khôi phục được chân tâm, thì cần phải thật sự quán tưởng bằng tâm, chứ không phải là lời nói hoặc giống như sự bắt chiếc, đóng kịch, tưởng tượng bằng tâm ý thức, mà phải chân thật quán tưởng bằng tâm chân thật, đưa tâm mình vào hoàn cảnh thật sự đối diện với vấn đề đó, và bằng sự quyết tâm tự giác vượt qua thử thách, nếu chúng ta chân thật làm được điều đó, thì đạt được sự thành công viên mãn, chuyển phàm thành thánh, chuyển nghiệp thành nguyện, chúng ta nên thực hành phương pháp quán tưởng về, tứ niệm xứ, tứ vô lượng tâm, đó là sự quán tưởng về thân, thọ, tâm, pháp, hay từ, bi, hỷ xả.
 Việc thực hành quán tưởng khởi đầu từ việc giúp đỡ, thương sót, chịu thay những khổ đau, phiền não, những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, sinh lão bệnh tử cho những người thân yêu của mình, như ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu, được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, được giải thoát sinh tử luân hồi, để trải sự luyện tâm bồ đề bền vững, còn chúng ta không vượt qua được thử thách, không chuyển được nghiệp sinh tử luân hồi thành giải thoát, thì vẫn là phàm phu. Chúng ta cần hiểu thấu vấn đề quán tưởng luyện tâm, là sự phát tâm nguyện thật sự, để giúp đỡ, chịu khổ đau thay cho tất cả mọi người, chúng sinh, nhưng trên thực tế chúng ta không thể làm được việc đó, vì đây là đạo lý nhân quả, không ai có thể chịu thay thế cho ai được, ngay cả đức Phật Như Lai cũng không làm được việc đó. Chúng ta đã gieo nhân là chính thiện hay nhân xấu tà ác, thì nhất định phải nhận quả báo tương ứng, mà không ai chịu thay thế được điều đó. Chúng ta đã phát tâm nguyện chịu thay thế cho những điều đó, tâm có thừa nhưng lực không đủ, chúng ta đã phát tâm chịu khổ đau, và phổ độ cho tất cả chúng sinh, mà không có chúng sinh nào hết khổ đau, và được độ, vì đây là quy luật nhân quả, nhưng việc “phát tâm ý viên thành, thì được viên mãn công đức”, chúng ta đã phát được tâm bồ đề bền vững, đó chính là tâm bao thái hư lượng khắp các pháp giới, đây cũng chính là tâm của chư Phật Như Lai, chư Bồ Tát, điều này thể hiện rất rõ qua hình tướng của Bồ Tát Di Lặc, thể hiện tâm bao dung độ lượng, “tâm bao thái hư, lượng khắp pháp giới”, miệng Ngài luôn luôn nở nụ cười, đó là thể hiện tâm vô thượng bồ đề. Tâm bao dung độ lượng tất cả những điều đúng sai, phải trái, thật giả, thiện ác, xấu tốt, chính tà, tội lỗi phước báu, nhân ngã thị phi, tất cả đều được thương sót, giúp đỡ, giới thiệu Phật pháp, đối đãi bình đẳng như nhau. 
Chúng ta ngày nay tâm lượng rất nhỏ, là do có sự phân biệt, chấp trước, vọng tưởng rất nặng, hơn nữa trong tâm còn có tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri, tà kiến, tự tư tự lợi, ích kỷ keo kiệt, ghen ghét đố kỵ, tự cao tự đại, những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác. Điều này thể hiện qua đời sống hiện tại, chúng ta tạo tác với thân, khẩu, ý nghiệp chủ yếu là vì lợi ích của bản thân, gia đình người thân, công ty, cơ quan xí nghiệp, xã hội, quốc gia, dân tộc, nhân loại trên toàn thế giới hiện nay khoảng bẩy tỷ người, và cuối cùng lớn hơn cả là tâm vô thượng bồ đề, tâm vô thượng chính đẳng chính giác, vì tất cả chúng sinh tân hư không khắp các pháp giới, đây chính là tâm của tất cả mười phương ba đời chư Phật Như Lai, chư Bồ Tát. Tức là tâm của tất cả mười phương ba đời chư Phật Như Lai, chư Bồ Tát chính là tâm của tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới. Như vậy, tất cả chúng sinh là tâm của chư Phật Như Lai và được tất cả chư Phật Như Lai luôn luôn tâm niệm vì lợi ích của tất cả chúng ta. Chính vì thế, chúng ta cần mở rộng tâm lượng, từ bi bác ái, trải rộng khắp tận hư không các pháp giới chúng sinh. Phật nói “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”, vì trong tất cả chúng sinh đều có Phật tính, pháp thân, giống như tâm của chư Phật Như Lai. Đức Phật có ba thân, và chúng ta cũng có ba thân, đó là pháp thân, báo ứng thân, hoá thân, trong đó pháp thân chính là chư Phật Như Lai, báo ứng thân là thân người, hoá thân chính là thân tâm vọng tưởng, khi báo ứng thân và hoá thân không còn, tức là được hợp nhất với pháp thân, thì chúng ta được minh tâm kiến tính thành Phật.
Khi chúng ta thực chứng được các giáo lý Phật pháp, từ đó biết được chân tướng của tất cả các sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, tất cả đều là những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng và sự thật chúng ta đều là vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng. Tức là thời gian tồn tại của chúng ta trong một kiếp người khoảng một trăm năm, cũng là giả không phải là thật, vì chúng ta được làm thân người là do nghiệp nhân đã tạo trong quá khứ, đến kiếp này gặp được duyên chiêu cảm, nên mới có được quả báo làm thân người để trả nghiệp cũ, tuân theo quy luật mười hai nhân duyên. Như vậy, chúng ta đang có được thân người là do vọng tâm biến hiện ra, trong đó có thân người với sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, khi tiếp xúc với cảnh giới sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, sinh ra sáu thức tương ứng. Còn chân tâm, bản thể, pháp thân, Phật tính của chúng ta thật sự đã được tồn tại từ vô lượng kiếp trong quá khứ vô cùng, và tương lai vô tận, hiện tại vẫn tồn tại trong mỗi con người chúng ta, không tăng giảm, không sinh không diệt, không bao giờ mất đi, chúng tồn tại vĩnh viễn. Chính vì đều đó nói rõ cho chúng ta biết được thời gian của một kiếp người cũng là giả tạm, vô thường, cho nên chúng ta chỉ sống được trong một kiếp người, được một trăn năm tuổi, không tự giác học Phật tu pháp, không phát được bồ đề tâm bền vững, thì thật là uổng phí một kiếp người, thật đáng thương xót vô cùng. 
 
 
 
Phần I.Phật pháp yếu lược
 
1. Trí tuệ Phật, là chân tướng sự thật của tất cả sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, cũng như tất cả chúng sinh tân hư không khắp các pháp giới, đó chính là sự hiểu thấu Phật pháp và buông bỏ tất cả những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, phân biệt, vọng tưởng, chấp trước, tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri tà kiến, tự tư tự lợi, ích kỷ keo kiệt, ghen ghét đố kỵ, tự cao tự đại, bất cần, tất cả những phiền não, lo lắng, vướng bận, khổ đau, dày vò, mê si, mờ mịt, buồn chán, thất vọng, những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác và tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm bền vững, khôi phục được chân tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Trí tuệ Phật có rất nhiều danh từ để gọi, nhưng chỉ để nói về một sự việc như là tri kiến Phật, Phật tính, Phật tâm, Phật, Như Lai, chân như bổn tính, Phật tỳ nô giá na, pháp thân, bản thể, thật tướng, tâm vô thượng chính đẳng chính giác. Trí tuệ Phật là chân như bổn tính của tất cả chúng sinh, trong mỗi chúng sinh đều có chân như bổn tính tồn tại vĩnh viễn không bao giờ mất đi. Chúng ta ngày nay không có được trí tuệ Phật, bởi vì chúng ta bị vô minh che lấp, khổ đau, phiền não, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác trở ngại, đó cũng chính là do tâm phân biệt, chấp trước, vọng tưởng che lấp bổn tính vốn thanh tịnh của chúng ta. Tâm chúng ta còn có tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri, tà kiến, đây là những cản trở lớn làm cho tâm của chúng ta bị ô nhiễm, vướng mắc, khiến cho tâm chúng ta luôn khổ đau, phiền não, lo lắng, vướng bận, buồn chán, thất vọng, bất cần. 
Phật tính được thể hiện qua mười đại nguyện vương của Bồ tát Phổ Hiền, đây là mười đức tính tốt đẹp, chính thiện nhất, khi chúng ta hồi phục được từ tính vốn có sẵn đủ vạn đức, vạn năng, toàn năng, toàn trí, không thể dùng văn tự có thể nói hết được những điều “thể dụng” đó.
Phật tâm hay tâm Phật chính là tâm vô thượng chính đẳng chính giác, tâm vô thượng bồ đề, tâm đại từ đại bi, tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, giác ngộ chính giác, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, từ bi bác ái, bao dung độ lượng, tâm hồi hướng phát nguyện phổ độ rộng khắp các pháp giới chúng sinh, trực tâm, thâm tâm, tâm thích cầu làm việc chính thiện, việc công đức, phước báu, tâm thật thà, thành thật, trung thực, hiền hoà, khiêm tốn, giản dị, tiết kiệm luôn vì lợi ích hiểu biết trí tuệ, công đức, phước báu, của chúng sinh. Tâm của bát chính đạo, tứ diệu đế, mười hai nhân duyên, mười tám giới, tâm của tam phước báu công đức, lục hoà kính, tam học, lục độ, mười đại nguyện vương của Bồ tát Phổ Hiền. Tất cả các tâm đó chúng ta tu hành bằng 8.400 pháp môn, thành đạt đến sự viên mãn thì đó chính là tâm của chư Phật Như Lai. Như vậy, chúng ta là người thật thà, hiền lương, trung thực tu trì mười thiện pháp được thành đạt tốt đẹp, thì được gọi là thiện nam tử, thiện nữ nhân, con người này cũng chính là đang bước trên con đường thành đạo vô thượng chính đẳng chính giác, cũng gọi là người có chân tu, chủng tử Phật hay gọi là người có nhân duyên, thiện căn, phước đức, công đức với Phật giáo, những người này đương nhiên tu học Phật pháp bằng 8.400 pháp môn, đạt đến viên mãn thành chư Phật Như Lai.
Chân như bổn tính của tất cả chúng sinh đều giống nhau và là nguồn cội của các pháp. Tự nó vốn có sự toàn tri, không có một chướng ngại nào cản trở, trong quá khứ vô cùng, tương lai vô tận, không có vật gì, việc gì, chúng sinh nào mà không biết rõ, hiểu thấu, tức là việc đi vào quá khứ và tương lai dễ như trong lòng bàn tay. Như vậy tại sao chúng ta không có được chân như bổn tính, không có được khả năng “thể dụng” như vậy, đó chính là do chúng ta chưa phát được tâm vô thượng bồ đề, mà chúng ta bị những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác và vô minh che lấp. Tức là chúng ta có tâm tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri, tà kiến, cũng tức là chúng ta có những hiểu biết, tư tưởng kiến giải sai lầm, lệch lạc về chân tướng của tất cả mọi thứ, mọi sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, cho nên chân như bổn tính của chúng ta không thể hiển lộ ra được sự toàn tri, không vượt qua được những chướng ngại như thời gian dài vô tận, không gian rộng vô lượng. Chúng ta chỉ bó hẹp tâm trong một không gian nhỏ bé, thời gian thì giả tạm, vô thường, không phải thật có, mà do tâm chúng ta có phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, mới biến hiện ra các cảnh giới, mười pháp giới, sáu cõi luôn hồi và ba đướng ác, chịu bao nhiêu nỗi sống khổ đau bất hạnh, thương sót cùng cực từ vô lượng kiếp đến nay, vẫn tiếp tục tự mình làm, tự mình chịu, nhân nào quả ấy, thiện nhân thì được thiện quả, còn ác nhân thì bị ác quả, đây chính là quy luật nhân quả không ai có thể thay đổi được.
Bản thể, chính là vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng, cũng gọi là thật tướng. Trong mỗi chúng sinh đều có một bản thể, chúng tồn tại một cách tự nhiên khách quan không bao giờ mất đi, chúng tồn tại vĩnh viễn trong mỗi chúng ta. Nhưng do chính chúng ta bị vô minh, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, phân biệt, vọng tưởng, chấp trước, nên mới biến hiện ra mười pháp giới và sáu cõi luân hồi, ba đường ác. Chúng ta có mặt trong thế giới của loài người này là để trả nghiệp quả báo, thời gian trả nghiệp quả báo của kiếp người là khoảng một trăm năm, khi chúng ta nhận quả báo kiếp này được làm người trong một thời gian vô thường khoảng một trăm năm, quả báo hiện nay là thân người kết hợp với nhân mới, duyên mới lại tạo ra quả báo mới trong tương lai, hiện nay chúng ta đang tạo ra các nhân chính thiện hoặc nhân xấu tà ác, cứ như thế lập đi, lập lại mãi trong sáu cõi luân hồi, ba đường ác, chịu sự sống khổ đau, phiền não đến cùng cực, không ngừng nghỉ. Đây chính là nhân duyên quả báo tương tục tuần hoàn không gián đoạn của chúng ta, từ vô thỉ kiếp đến nay mà chúng ta không hề biết đến. Như vậy, ngay bây giờ chúng ta nên tự mình phản tỉnh, tự giác ngộ chính giác và buông bỏ tất cả các giả tướng, tinh tấn tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, tạo ra nhân duyên giải thoát của quả Phật cứu cánh viên mãn, thoát khỏi sinh tử luân hồi trong sáu cõi ba đường ác và tinh tấn cầu đạo vô thượng chính đẳng chính giác, được minh tâm kiến tính thành Phật.  
Tâm vô thượng chính đẳng chính giác, chính là tâm thương sót, giúp đỡ mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, bình đẳng được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ giả tướng, phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Như vậy tâm của chư Phật Như Lai là tâm của tất cả chúng sinh ở tận hư không khắp các pháp giới, không một nơi nào là không có tâm chư Phật Như Lai, không gian bao trùm khắp không một chỗ hở, đó chính là ánh sáng quang minh của chư Phật Như Lai rộng khắp các pháp giới, không có chướng ngại, vô lượng, vô biên không có bờ mé. Như vậy, tất cả chúng sinh đều có tâm Phật thể hiện, trong tương lai chúng ta, cũng như tất cả chúng sinh đều là chư Phật Như Lai, không thể nghĩ bàn. Chúng ta hiện nay tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, cũng nên phát tâm vô thượng chính đẳng chính giác học theo đức Phật Như Lai, phát tâm bồ đề rộng khắp, tâm lượng mở rộng giúp đỡ mọi người, không có nơi nào là không có sự hiện diện tâm của chúng ta. Như vậy, tâm chúng ta liền được ở cảnh giới vô trụ Niết Bàn, do hiện hữu ở khắp các pháp giới, tâm vô trụ đó chính là cảnh giới của Niết Bàn, tâm vô trụ nhưng sinh lòng thương sót, giúp đỡ tất cả chúng sinh được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Tức là chúng ta sinh tâm phổ độ mọi người, chúng sinh ở các pháp giới, nhưng tâm phải vô trụ và khi tâm được vô trụ thì phải sinh tâm từ bi hỷ xả, chúng ta làm được như thế mới tương ứng với chân tướng, đó cũng chính là pháp giới nhất chân, pháp giới có một không hai. 
Chúng ta phải luôn giữ cho tâm mình được thanh tịnh, như như bất động với tất cả các nhiễu động bên ngoài, tâm không bám trụ vào một cảnh giới thuận hay nghịch nào, nhưng cảnh giới nào chúng ta cũng có thể hiện hữu có mặt khi có niệm khởi. Như vậy, đây chính là hai vị Bồ tát Quán Vô Trụ và Thần Thông Hoa thể hiện, ví như chúng ta là tâm của vòng tròn, vòng tròn tâm thì như như bất động, còn vòng tròn ngoài thì luôn chuyển động, không gián đoạn, là chỉ cho thế giới hoàn cảnh vũ trụ nhân sinh của chúng ta luôn chuyển động, thay đổi, biến hoá, tuân theo các quy luật sinh trụ dị diệt, sinh lão bệnh tử, tứ diệu đế, mười hai nhân duyên, mười tám giới, trong cái quy luật biến đổi không ngừng nghỉ đó, chúng ta cần nắm chắc được nguyên tắc, đạo lý bất biến, giữ được tâm thanh tịnh tịch diệt, như như bất động, một niệm không sinh, không bị cảnh giới bên ngoài thay đổi, chi phối đến chúng ta, làm được như vậy là đã đạt đến cảnh giới vô trụ niết bàn, đạt được tâm vô thượng bồ đề, nhất định tu hành các công đức, được viên mãn thành bậc vô thượng chính đẳng chánh giác. 
Chúng ta niệm Phật là tâm chúng ta trụ ở câu Phật hiệu “Nam mô A di đà Phật”, có nghĩa là tâm chúng ta vô trụ ở cảnh giới vô lượng thọ Phật và vô lượng quang Phật, cảnh giới này có mặt hiện hữu ở tất cả mọi nơi tận hư không khắp các pháp giới, như vậy, chúng ta niệm Phật nhất tâm hay thiền định đến được cảnh giới minh tâm kiến tính, thì đó chính là trở về với vô trụ Niết bàn, nhưng lại sinh tâm thương sót, truyền đạo, giới thiệu Phật pháp, phổ độ bình đẳng cho tất cả chúng sinh. 
Tâm bồ đề được sinh khởi hay tạo hợp từ tâm chân thành, thật thà, chân thật, lương thiện, thành thật, trung thực, hiền hoà, khiêm tốn, giản dị, tiết kiệm, thanh tịnh, bình đẳng, giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, từ bi bác ái, bao dung độ lượng, tâm đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn, thương sót vô hạn lượng đối với tất cả sự mê lầm chấp ngộ, khổ ải cùng cực của chúng ta. Muốn đồng cam cộng khổ, chịu đựng thay thế những nỗi khổ nạn đó, phổ độ cho chúng ta được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui và cũng là tâm phát nguyện hồi hướng tất cả công đức cầu nguyện được vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc, tu hành viên mãn thành chư Phật Như Lai. Tâm bồ đề là tâm sinh ra tất cả các chính thiện pháp. Tức là tâm bồ đề luôn vì lợi ích của chúng sinh, như thân, khẩu, ý nghiệp đồng nhất, thống nhất, kiên định mục tiêu làm các việc tốt đẹp, giúp ích cho mọi người, chúng sinh, nói những lời chính thiện tâm, đạo lý, đúng pháp, ý nghĩ thì luôn nghĩ những điều tốt đẹp cho mọi chúng sinh, thân tâm đều là hành vi tạo tác lương thiện. Chính vì vậy tâm bồ đề là tâm thương sót, giúp đỡ tất cả chúng sinh, vì chúng sinh mà giảng kinh thuyết pháp, vì chúng sinh mà biểu diễn, giảng nói các đạo lý, phương pháp, cảnh giới chính pháp trong Phật giáo, giúp đỡ tất cả chúng sinh bình đẳng được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, được hưởng tất cả lợi ích, trí tuệ, công đức, sớm được thành tựu viên mãn viên thành Phật đạo. Khi chúng ta phát nguyện được bồ đề tâm, tức là tâm đại từ đại bi vô hạn lượng đối với tất cả chúng sinh, thì đó chính là các chính thiện pháp, sẽ chân thật mang lại lợi ích, trí tuệ, công đức cho chúng sinh. Vì khi bạn có được tâm bồ đề bền vững, thì tất cả những điều bạn nói, ý tưởng, suy nghĩ, hành vi, việc làm của bạn, đều là vì lợi ích trí tuệ, công đức, phước đức, của chúng sinh mà thể hiện.
Phát bồ đề tâm bền vững để dung nạp tất cả mọi sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này. Chúng ta ôm bao tất cả mọi thứ, các chính thiện pháp, tà ác pháp, phải trái, nhân ngã thị phi, tốt xấu, sướng khổ, vui buồn, phiền não, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, cảnh thuận nghịch, ô nhiễn hay thanh tinh, uế độ hay vô trụ niết bàn, tất cả những thứ đó là chỉ hai bên mâu thuẫn đối nghịch nhau trong vũ trụ nhân sinh này, chúng ta đều ôm bao dung chứa hết trong tâm bồ đề. Điều đó thể hiện sự bình đẳng thương sót, giúp đỡ đối với tất cả mọi người, chúng sinh một cách tự nguyện, tự giác, vô điều kiện, để trải sự luyện tâm, nuôi dưỡng tăng trưởng tâm bồ đề của chúng ta mỗi ngày thêm lớn, thêm kiên cố bền vững trên con đường cầu đạo vô thượng chính đẳng chính giác. Chúng ta biết Phật giáo luôn giữ tâm trung đạo, đứng giữa như tâm của vòng tròn, nói thiện ác, phải trái, đúng sai là nói hai bên, chúng ta đứng giữa trung đạo, nhưng kỳ thật chúng ta phát được bồ đề tâm, thì tâm của chúng ta có mặt khắp mọi nơi. 
Quán tưởng vô trụ sinh tâm, sinh tâm phổ độ tất cả chúng sinh mà vô trụ, để luyện tâm bồ đề của chúng ta ở mười pháp giới, trong đó có ba đường ác là Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh, ba đường thiện là A tu la, Người, Trời và bốn pháp giới thánh là Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, chư Phật Như Lai. Khi chúng ta ở trong sáu cõi luân hồi, trong cảnh giới nào thì cũng phải chịu quả báo luân hồi, nhân duyên quả báo tương tục tuần hoàn không gián đoạn, chịu nhiều sự đau khổ, phiền não đến cùng cực. Điều đó làm cho chúng ta không hội nhập kinh tạng, không hiểu được trí tuệ của chư Phật Như Lai, do đó không thoát khỏi sinh tử luân hồi từ vô thỉ kiếp đến nay mà chưa thoát ra được. Khi chúng ta quán tưởng vô trụ sinh tâm làm Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, tức là trong cảnh giới của pháp tứ diệu đế, mười hai nhân duyên và lục độ. Tuy đã thoát khỏi sinh tử luôn hồi nhưng bước đường đến bậc vô thượng chính đẳng chính giác còn rất là dài, trên kinh Phật nói là ba đại a tăng kỳ kiếp, vì chúng ta tu hành có tiến, có thoái, có gián đoạn, tiến thì ít lùi thì nhiều, bậc Thanh văn, Duyên giác trụ ở cảnh giới không, đã diệt được hết phiền não, khổ đau, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, nhưng mới là tự độ mà chưa có độ tha, chưa thấy được chân như bổn tính của mình, chưa được vào cảnh giới Niết bàn thật sự, tuy đã đạt đến cảnh giới thành tựu đắc đạo quả vị A la hán, Bích tri Phật, nhưng chỉ có một mình tự lợi mà chưa lợi tha, giống như người bị nhốt trong một cái cung điện rộng lớn tốt đẹp, nguy nga, nhưng chỉ có một mình thì thật là buồn chán, không được đi khắp mười phương ba đời chư Phật Như Lai, để được cúng dường ức ức chư Phật Như Lai, nghe vô lượng vô biên pháp môn, trong tâm vẫn còn vọng tưởng, phân biệt, chấp trước tuy rất nhẹ và vi tế, mới đè phục và chế ngự được những phiền não, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, chưa trừ đoạn được tận gốc dễ, đây là hàng nhị thường và tam thừa mà trên kinh Phật nói đến. Như vậy, chúng ta phát được bồ đề tâm chính là đang tạo ra nhân duyên của quả báo làm chư Bồ tát, chư Phật Như Lai trong tương lai.
Pháp môn niệm Phật là niệm sáu chữ hồng danh “Nam mô A di đà Phật” đến công phu niệm Phật thành khối, hay sự lý nhất tâm bất loạn, thì lợi ích trí tuệ, công đức, phước báu, có được bằng việc đọc tụng hết thẩy những kinh điển trong quá khứ, hiện tại, và tương lai, của tất cả mười phương ba đời chư Phật Như Lai xếp lại, đó cũng chính bằng việc đọc tụng ba đại tạng kinh và mười hai giáo trong Phật giáo. Sáu chữ hồng danh “Nam mô A di đà Phật” khi chúng ta triển khai ra thì đó cũng chính bằng toàn bộ kinh điển gồm ba đại tạng kinh và mười hai giáo trong Phật giáo. Nói cách khác, tất cả ba đại tạng kinh và mười hai giáo mà chư Phật Như Lai đã giảng nói suy đến tận cùng chính là sáu chữ hồng danh, là danh hiệu của đức Phật A di đà và cũng chính là đức hiệu của mười phương ba đời chư Phật Như Lai, không bỏ sót một vị Phật Như Lai nào, tất cả vạn pháp đều có trong câu Phật hiệu “Nam mô A di đà Phật”. Chính vì vậy, khi chúng ta cất lên lời ca ngợi, xưng tán chư Phật Như Lai, niệm Phật thì có được lợi ích hiểu biết trí tuệ cao đẳng, công đức, phước đức, vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Pháp môn Tịnh Độ tông có hiệu quả tốt nhất hiện nay, phù hợp với mọi căn cơ, nhân duyên, thiện căn, công đức, phước báu, của tất cả chúng sinh trong thời đại này. Chúng ta có thể cùng một lúc tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, hoặc bằng bất kỳ pháp môn nào trong và ngoài Phật giáo cũng được, vì là bình đẳng, nhưng chúng ta phải phát được bồ đề tâm, trí thành tha thiết cầu nguyện được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, đều được vãng sinh và tu hành viên mãn thành Phật Như Lai.
Chúng ta biết tâm của các vị Bồ tát là tâm vô thượng bồ đề. Chúng ta phát tâm bồ đề vô trụ, tâm có định, có huệ, định ở mười pháp giới chúng sinh. Tâm định thanh tịnh đến tịch diệt, không ô nhiễm bụi trần, tức là nói cảnh giới môi trường bên ngoài có bị ô nhiễm, cám dỗ, nghịch cảnh đến đâu đi nữa, khi tác động vào tâm chúng ta, thì tâm chúng ta vẫn như như bất động, thân tâm bất động không một chút dung động. Tức là chính chúng ta phát được tâm bồ đề, để cải tạo, thay đổi, chuyển hoá hoàn cảnh, môi trường xung quanh bị ô nhiễm, những cám dỗ, ham muốn dục vọng, phiền não, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, thành trong sạch, thanh tịnh, hiền hoà tốt lành hơn. Môi trường hoàn cảnh sống của chúng ta là nghịch cảnh hay thuận cảnh, thì cũng không làm tâm của chúng ta bị ảnh hưởng rung động, mà tâm chúng ta phải làm chủ được ngoại cảnh thuận nghịch đó, chúng ta cần phải vượt qua tất cả những vật cản và bắt chúng phải thay đổi theo ý muốn của chúng ta, làm được như vậy là chúng ta đang thẳng tiến trên con đường vô thượng chính đẳng chính giác. Đó cũng chính là bồ đề tâm bền vững, có định huệ, tức là chúng ta đã làm chủ được những nhận thức hiểu biết trí tuệ cao đẳng, làm chủ được những hành vi, tạo tác của thân, khẩu, ý nghiệp, làm chủ được những cảm xúc, thái độ do sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần. 
Tâm đại từ đại bi, là tâm thương sót, quan tâm, giúp đỡ bình đẳng tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, mà không phân biệt chúng sinh chính thiện hay tà ác, phải trái, tốt xấu, đúng sai, thị phi nhân ngã. Tất cả đều được đối đãi công bằng như nhau, không phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, thì đó chính là tâm đại từ đại bi. Vì biết chúng sinh trong lục đạo luân hồi là khổ đau, phiền não đến cùng cực, cho nên chúng ta phát tâm đại từ đại bi thương sót giúp đỡ cho những chúng sinh trong lục đạo luân hồi sớm được giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, thành bậc thánh. Chúng ta biết pháp tứ diệu đế gồm có khổ đế, nhân đế, diệt đế, đạo đế trong đó đạo đế là quan trọng nhất, vì chúng ta là chúng sinh trong sáu cõi luân hồi là khổ đau, phiền não, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, chính vì thế mà chúng ta cần phải tu hành theo đạo đế, tức là tu hành theo Bát chính đạo. Chúng ta phát tâm đại từ đại bi đối với tất cả chúng sinh, cũng chính là chúng ta đang tạo ra nhân duyên lành, nhân duyên của quả giải thoát sinh tử luân hồi trong sáu cõi. Chúng ta càng quyết tâm tạo ra nhiều nhân duyên chính thiện bao nhiêu, thì lợi ích trí tuệ, công đức, càng lớn bấy nhiêu, cơ hội chắc chắn chúng ta được nhận quả báo chính thiện, giải thoát sinh tử luân hồi lớn bấy nhiêu. Quy luật mười hai nhân duyên là vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh lão, bệnh tử. Mười hai nhân duyên này được lặp đi lập lại nhiều lần trong cuộc đời quá khứ và ngay đời hiện tại của chúng ta. Như vậy, chúng ta làm thế nào để chấm dứt được mười hai nhân duyên, nó đã khiến chúng ta phải trôi lăn trong lục đạo luân hồi, sinh tử tử sinh, đời đời kiếp kiếp trong quá khứ vô thỉ kiếp đến nay, vẫn là như vậy, thật đáng thương xót vô cùng. Mười hai nhân duyên là chuỗi vòng tròn với mười hai mắt xích khép kín, chỉ cần chúng ta tháo bỏ loại trừ cắt đứt được một trong mười hai mắt xích đó, thì ngay lập tức chúng ta thoát ra được khỏi sáu cõi luân hồi. Chúng ta có thể hạ công phu, quyết tâm buông bỏ một trong ba nhân duyên là ái, thủ, hữu thì là thành công. 
Nhân duyên “ái”, chính là trạng thái của tình cảm của con người đối với con người, và tình cảm của con người với thiên nhiên, môi trường xung quan và tất cả mọi sự vật, sự việc hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh quan này, nảy sinh ra tình cảm như là vui sướng, buồn đau, ưa thích, chán ghét, thất vọng, tốt xấu lẫn lộn thì được gọi là ái. Vậy chúng ta không ái, tức là tâm của chúng ta luôn có định huệ, tâm của chúng ta phát ra là tâm đại từ đại bi, bồ đề tâm thanh tịnh không nhiễm ái, không nhiễm bụi trần, không nhiễm năm dục sáu trần, làm được đến như vậy thì chúng ta đã đoạn trừ được quy luật mười hai nhân duyên, thoát ra khỏi sinh tử luân hồi được giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ, giải thoát sinh tử luân hồi. vì không còn nhân duyên của sinh tử luân hồi trong lục đạo luân hồi và ba đường ác. 
Nhân duyên “thủ”, chính là chấp thủ, chấp trước, tham chấp vào các sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, chúng ta đã có chấp thủ vào cái tôi, cái của tôi, như sự tự tư tự lợi, ích kỷ keo kiệt, ghen ghét đố kỵ, tự cao tự đại, lưu luyến bụi trần, tham lam đắm đuối vào tài, sắc, danh, thực, thuỳ, tham luyến vào danh vọng lợi dưỡng, vinh hoa phú quý, còn trong tâm thì có tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri, tà kiến, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, thì đây chính là chấp thủ. Chúng ta muốn đoạn rứt nhân duyên chấp thủ, thì phải quán tưởng tâm vô trụ, tức là mọi thứ hiện hữu trong vũ trụ nhân sinh này, đều là do nhân duyên mà hợp thành, đều là những giả tướng do tứ đại hợp thành như đất, nước, gió, lửa, nó chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian giả tạm, nay còn mai mất, vô thường, cho nên chúng ta không nên bám vứu, tham đắm vào bất kỳ một đối tượng nào trong vũ trụ nhân sinh này, vì chúng đều là tuân theo quy luật vô thường, như thành trụ hoại không, sinh lão bệnh tử, chúng đều là do nhân duyên quả báo tạo thành giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, vô thường, không thật có mà chỉ là tạm thời có mà thôi. Chúng ta quán tưởng như thế thì tâm chúng ta liền có định huệ, liền xa rời được những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, vô thường, cám dỗ, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này. Người nào làm được như vậy, là đã buông bỏ được nhân duyên thủ. 
Nhân duyên “hữu”, đây chính là sự tương tác giữa quả báo cũ với nhân mới, duyên mới, để tạo thành quả báo mới trong tương lai. Như vậy, chúng ta muốn đoạn trừ nhân duyên hữu, thì chúng ta phải tạo nhân duyên mới, mà quả báo là được thành bậc Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, và chư Phật Như Lai. Chúng ta nên tạo nhân duyên của quả Phật Như Lai là tốt nhất, đó chính là đạo lý nhân quả đồng thời, niệm sáu chữ hồng danh “Nam mô A di đà Phật”. Đây là pháp môn hiệu quả nhất, thích hợp với mọi căn cơ chúng sinh, đó chính là quy luật nhân quả đồng thời “Niệm Phật thành Phật”, niệm Phật là nhân, còn thành Phật là quả. Tức là chúng ta là quả báo của nhân quá khứ, quả báo của chúng ta hiện nay kết hợp với nhân duyên mới, là nhân duyên của quả Phật cứu cánh viên mãn trong đời tương lai, đây cũng là con đường tốt nhất cầu đạo vô thượng chính đẳng chính giác. Chúng ta biết muốn đoạn trừ được nhân duyên “hữu” trong mười hai nhân duyên là điều khó, vì trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta quan hệ đối nhân sử thế, tiếp sự vật, tiếp sự việc, hiện tượng tạo ra rất nhiều nhân duyên, ấn tượng để lại rất sâu sắc, như là sáu căn của chúng ta tiếp súc với cảnh giới sáu trần sinh ra sáu thức. Chúng ta muốn đoạn được nhân duyên “hữu”, thì cần phải có nhân duyên, thiện căn, công đức, phước đức rất lớn. Trong đời sống hằng ngày của chúng ta đối với tất cả các nhân duyên, mà không phải nhân duyên của quả báo giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, thì chúng ta nhất định không để ý đến nó, không động tâm, động niệm, chúng ta phải luôn luôn cảnh giác, tự giác giữ gìn cho tâm chúng ta luôn được thanh tịnh, tâm bồ đề bền vững. Chúng ta luôn giữ được tâm bồ đề bền vững thì là thành công, nhất định trong một đời, một kiếp này được giải thoát sinh tử luân hồi, ra khỏi tam giới, sáu cõi luân hồi và ba đường ác.
Tâm chân thành, bao gồm các tâm như thật thà, thành thật, trung thực, hiền lành, lương thiện, hiền hoà, khiêm tốn, giản dị, tiết kiệm. Chúng ta dùng tâm chân thành đối với mọi người, với các sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, đây là sự kính trọng tất cả chúng sinh và chân tướng của tất cả mọi thứ trong vũ trụ nhân sinh này. Tâm chân thành biết ơn, đền ơn một cách thành thật, thật thà, trung thực, hiền hoà, khiêm tốn, giản dị, tiết kiệm nhất. Tâm chân thành phát triển thành tâm trí thành cung kính, lễ kính đối với tất cả mọi người, sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này. Chúng ta nên dùng tâm trí thành cung kính, dũng mãnh, tinh tấn, rốt ráo, tích cực, chủ động, tự giác học Phật tu pháp, theo phương pháp “Tín Nguyện Hạnh” hay “Giới Định Huệ”, mà Bổn sư Thích Ca Mô Ni Phật đã truyền đạo, giới thiệu Phật pháp với 8.400 pháp môn, giúp ích cho chúng ta có được lợi ích trí tuệ, công đức, phước báu viên mãn, có được đời sống trí tuệ cao đẳng, tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. Tâm chân thành là tâm cơ bản nhất để tu học Phật pháp thẳng tiến trên con đường đến với quả vị vô thượng chính đẳng chính giác. 
Như vậy, chúng ta cần đấu tranh tư tưởng để buông bỏ những điều xấu tà ác, bất thiện, sai trái, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, tự tư tự lợi, ích kỷ keo kiệt, đố kỵ ghen ghét, tự cao tự đại, để đạt được tối thiểu được tâm chân thành thì mới bước vào được cửa nhà Phật, mới có thể tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm bền vững, được minh tâm kiến tính thành Phật. Nếu chúng ta chưa có được tâm chân thành thì chúng ta chưa đủ điều kiện, chưa đủ tư cách để bước vào cửa nhà Phật. Tức là cửa nhà Phật rất rộng mở bình đẳng cho chúng ta, cũng như tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, nhưng muốn vào được cửa nhà Phật, thì trước tiên phải có tâm chân thành mới thâm nhập được vào kinh giáo, đạo lý, cảnh giới của các pháp giới trong nhà Phật, mới đem lại chân thật những lợi ích trí tuệ, công đức, phước báu vô lượng vô biên. Từ bỏ những thói quen xấu tà ác, tu tập những thói quen tốt, có lòng tin tuyệt đối vào chính pháp Phật pháp, tin vào chính bản thân mình có từ tính A di đà Phật, chân như bổn tính, tin vào đức Phật Thích Ca Mô Ni chân thật giới thiệu cho chúng ta thế giới Tây phương cực lạc y báo chính báo trang nghiêm, có vị đạo sư tiếp dẫn A di đà Phật, với bốn tám đại nguyện thiết lập Tịnh Thổ, để tiếp dẫn tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới được bình đẳng có đủ điều kiện phát được bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A di đà Phật đến công phu thành khối, lý nhất tâm bất loạn, được minh tâm kiến tính, khôi phục được Phật tính, trí thành tha thiết cầu nguyện được vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc. 
Tâm thanh tịnh, bao gồm những tâm như chân thành, thành thật, thật thà, trung thực, hiền hoà, khiêm tốn, giản dị, tiết kiệm. Khi chúng ta có được tâm chân thành vào được cửa nhà Phật, thì tâm chúng ta liền được thanh tịnh, không bị ô nhiễm bụi trần. Tâm thanh tịnh làm cho môi trường, hoàn cảnh sống bên ngoài bị ô nhiễm, thay đổi, sửa đổi, tự làm mới nó, làm cho nó tốt hơn, thanh tịnh, hiền hoà hơn. Tâm thanh tịnh đến tịnh diệt của chúng ta có “Giới Định Huệ”, thì hoàn cảnh, môi trường xung quanh có ô nhiễm đến đâu đi nữa thì cũng không làm ảnh hưởng gì đến tâm thanh tịnh của chúng ta. Định tâm của chúng ta là sự hiểu thấu Phật pháp, còn huệ tâm là sự buông bỏ những giả tướng. Như vậy tâm thanh tịnh là tâm có định huệ, bền vững sáng suốt, thông đạt, thanh tịnh đến tịch diệt, là tâm vô trụ Niết bàn. Tâm thanh tịnh là tâm không có mong cầu gì hơn, là việc hoằng pháp lợi sinh, làm công tác văn hoá giáo dục xã hội, truyền đạo, giới thiệu Phật pháp, tư tưởng Hồ Chí Minh cho tất cả mọi người và tu hành các công đức, tự giác ngộ đạo vô thượng chính đẳng chính giác, để có đủ vạn đức, vạn năng, có đủ “thể dụng”. Tức là trong cuộc sống hằng ngày chúng ta không mong cầu gì cho bản thân, mà chỉ mong cầu giúp ích cho mọi người có được cơm ăn, áo mặc và được học hành, cũng như việc phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, của tất cả mọi người, hiểu thấu Phật pháp và buông bỏ tất cả những giả tướng. Chúng ta có tâm phân biệt, chấp trước, vọng tưởng vào những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng đó, cho nên mới biết hiện ra mười pháp giới và sáu cõi luân hồi ba đường ác, chịu nhân duyên quả báo luân hồi nhiều đời, nhiều kiếp, phải chịu muôn vạn khổ đau, phiền não đến cùng cực, không thể tính đếm hết, thật đáng thương xót vô cùng.
Tâm bình đẳng là tâm đối xử, giúp đỡ, thương sót, truyền đạo, giới thiệu Phật pháp cho tất cả mọi người, nhân loại, chúng sinh, đều hiểu thấu Phật pháp và buông bỏ tất cả những giả tướng, để chân thật có được lợi ích hiểu biết trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báo đều như nhau, không phân biệt đây là người xấu, người tốt, người chính thiện hay người xấu tà ác, hoặc đối với các sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, cũng đều là bình đẳng như nhau không hề khác biệt. Chúng ta đối với tất cả chúng sinh hữu tình hay vô tình tận hư không khắp các pháp giới bằng tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng như nhau, cũng như bình đẳng đối với mười phương ba đời chư Phật Như Lai, cũng đều là công bằng như nhau, không hề khác biệt. Vì tất cả chúng sinh đều có Phật tính và đều thành chư Phật Như Lai trong tương lai. 
Tâm bình đẳng đạt đến cảnh giới cao nhất là đồng thể, tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, cùng có đồng thể tướng, thể tính với chúng ta và với mười phương ba đời chư Phật Như Lai, tức là cùng có một pháp thân như nhau, hoàn toàn không một chút khác biệt. Chúng ta là do quy luật mười hai nhân duyên mà có mặt trên cuộc đời này. Vậy khi một trong mười hai nhân duyên đó chấm rứt, thì tất cả tiến trình mười hai nhân duyên đều chấm rứt. Vạn pháp quy về một và cũng có thể nói tất cả chúng sinh hữu tình hay vô tình, vạn vật hiện hữu trong vũ trụ nhân sinh này, đều là đồng thể, đồng thể tướng, đồng thể tính, tướng và tính là một không phải là hai, vì tất cả đều là chư Phật Như Lai trong tương lai. Danh từ Phật là dựa trên thể tướng mà gọi, tướng Phật có ba hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp, danh từ Như Lai là dựa trên đức tính mà gọi, có mười đức tính điển hình là mười đại nguyện vương của Bồ tát Phổ Hiền. 
Chúng ta nói tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới đều đồng một pháp thân, đồng một thể tướng, thể tính, trong tương lai nhất định đều thành Phật Như Lai. Đạo lý này chính là ở chỗ tất cả các địa vị cao nhất là chư Phật Như Lai, hay là bậc vô thượng chính đẳng chính giác, thì cũng chính là một địa vị cao nhất, một địa vị cao nhất cũng chính là vô lượng vô biên địa vị cao nhất đó, “Một địa vị cao nhất là tất cả, tất cả địa vị cao nhất là một địa vị”. Tâm bình đẳng, pháp cũng bình đẳng, Phật pháp là pháp bình đẳng, là nền văn hoá giáo dục bình đẳng cho tất cả mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, không phân biệt chúng sinh đó là ai, tốt hay xấu, giầu hay nghèo, hiểu biết, thông minh, trí tuệ, thông đạt, hay ngu si, mê muội, mờ mịt, chính thiện hay xấu tà ác, phải trái, đúng sai, tất cả đều được bình đẳng học Phật, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. Nói cách khác thế giới Tây phương cực lạc bình đẳng tiếp nhận tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới có đủ điều kiện, đủ tư cách là có được bồ đề tâm và phát nguyện được vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc thì đều được như nguyện.
Bổn sư Thích Ca Mô Ni Phật với tám mươi năm trụ thế, giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, trong suốt bốn mươi chín năm đã nói ra vô lượng vô biên pháp môn, sau khi đức Phật diệt độ nhập Niết bàn thì các đệ tử kết tập lại chia thành 8.400 pháp môn, để lưu lại hoằng pháp lợi sinh, giới thiệu Phật pháp cho chúng ta, cũng như tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, trong hiện tại và tương lai. Như vậy, chúng ta nói Bổn sư Thích Ca Mô Ni Phật đã có tâm phân biệt, chấp trước, vọng tưởng nên đã chia thành 8.400 pháp môn để giáo hoá tất cả chúng sinh? Chúng ta nghĩ như vậy là do chúng ta có tâm phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, còn tâm của Ngài không hề có phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, mà đây là Ngài biết tâm của chúng sinh do vô minh, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, nên có phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, nên Ngài mới dùng pháp phương tiện thiện xảo với 8.400 pháp môn, để mang lại lợi ích hiểu biết trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báu, chân thật nhất và phù hợp với từng căn cơ, nhân duyên, thiện căn, phước đức, công đức, sở nguyện của tất cả chúng sinh trong đời hiện tại và trong đời tương lai. Phật pháp là pháp bình đẳng, nhưng do chúng sinh phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, mà phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, còn thực chất tâm của Ngài là bình đẳng, đồng thể với từ tính, với pháp thân của mười phương ba đời chư Phật Như Lai. Phật pháp mà Bổn sư Thích Ca Mô Ni Phật đã vì tất cả chúng sinh tân hư không khắp các pháp giới, giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, trong suốt tám mươi năm trụ thế với 8.400 pháp môn, cũng chính là Phật pháp mà mười phương ba đời chư Phật Như Lai giảng nói, truyền đạo.
Phật pháp do Bổn sư Thích Ca Mô Ni Phật giảng nói, với chân như bổn tính, chân tâm, bản thể, thể tính, thể tướng, pháp thân, tự nhiên trong mỗi chúng ta, nhân loại, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới đều có và mười phương ba đời chư Phật Như Lai lưu suất ra Phật pháp, để hoằng pháp lợi sinh, giúp đỡ, giới thiệu Phật pháp cho tất cả chúng sinh được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, được hưởng chân thật lợi ích trí tuệ, công đức, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật Như Lai. Như vậy muốn nói Phật pháp do nhân duyên sinh, do chúng sinh cần nên Phật pháp mới xuất hiện để giúp đỡ, thương sót chúng ta và là pháp phương tiện thiện xảo chỉ có tác dụng, công dụng hoằng pháp lợi sinh, còn thể tướng, thể tính thì không có. Vì khi hai vị Phật Như Lai gặp nhau thì không có pháp để nói, vì tất cả các pháp đều như nhau, giống nhau, không một sai khác, tất cả đều dung thông, chỉ là lời chào mừng, tán thán công đức. Nhưng chư Phật Như Lai gặp chúng ta, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, thì cần nói rất nhiều pháp với 8.400 pháp môn, phù hợp với căn cơ của từng chúng sinh, giúp đỡ, thương sót tất cả chúng sinh sớm được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, và được giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, tu hành các công đức viên mãn thành bậc vô thượng chính đẳng chính giác. 
Tâm giác ngộ chính giác, bao gồm tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, hiểu biết trí tuệ cao đẳng. Tức là sự hiểu thấu Phật pháp và buông bỏ vạn nhân duyên trong vũ trụ nhân sinh này, xa lìa tâm tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri, tà kiến, cũng chính là chúng ta không còn tham đắm và năm dục sáu trần, vinh hoa phú quý, danh vọng lợi dưỡng, tài, sắc, danh, thực, thuỳ, không còn tâm sân hận, oán thù khi gặp nghịch cảnh, khổ đau, phiền não, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, bi thương cùng cực, không còn si mê, mờ mịt, say đắm bụi trần, không còn nghi ngờ, nghi vấn các pháp trong Phật pháp, tất cả đều được hiểu thấu, thông đạt, lý giải hành chứng, không còn tham sống sợ chết, không còn sợ đau khổ, phiền não, nghịch cảnh, không thích hưởng thụ phàm trần, giác ngộ đối với vô thường, vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng, không tà tri, tà kiến. Chúng ta học Phật tu pháp để sửa chữa, thay đổi, tự làm mới tất cả tư tưởng, kiến giải sai lệch đối với chân tướng của tất cả các pháp trong vũ trụ nhân sinh này, biến tà tri, tà kiến thành chính tri, chính kiến theo Bát chính đạo của Phật pháp. 
Chúng ta thấy “vạn pháp đều không” chỉ có tác dụng giáo dục, mà không có thể tính, chúng chỉ là pháp phương tiện thiện xảo, để phổ độ chúng sinh giải thoát được khổ đau, phiền não, mê si, mờ mịt, chứng nhập Niết bàn, còn thực chất thì vạn pháp đều không. Khi chúng ta quán tưởng “vạn pháp đều không”, thì chúng ta đã hiểu thấu, lý giải, thông đạt, chứng ngộ được Phật pháp, làm được như vậy là chúng ta đã không còn phân biệt, chấp trước, vọng tưởng pháp thế gian và xuất thế gian, chúng ta đã đến cảnh giới tuỳ duyên, tự tại. Tức là những chính tri, chính kiến của Phật Như Lai cũng chính là chính tri, chính kiến của chúng ta. Như vậy những suy nghĩ, lời nói, việc làm, hành đạo, truyền đạo, giới thiệu Phật pháp của Bổn sư Thích Ca Mô Ni Phật trong suốt tám mươi năm trụ thế, vì chúng ta, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới mà bình đẳng giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, chúng ta đều hiểu thấu lý giải hành chứng giác ngộ, thâm nhập kinh giáo hoàn toàn. Tức là đời sống của chúng ta hiện tại đồng nhất với đời sống của Bổn sư Thích Ca Mô Ni Phật, tự nhiên không một chút sai lệch, khác biệt, thì đó chính là chúng ta đã hoàn toàn giác ngộ chính giác, đại triệt đại ngộ, được minh tâm kiến tính thành Phật.
Tâm từ bi bác ái, bao gồm tâm chân thành, thật thà, thành thật, trung thực, hiền hoà, khiêm tốn, giản dị, tiết kiệm, thanh tịnh, giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, tức là nói khi chúng ta đạt đến được tâm giác ngộ chính giác, thì mới sinh khởi được tâm từ bi bác ái, hỷ xả. Tâm từ bi bác ái là sự thương sót, giúp đỡ tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, bình đẳng được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ tiếp nhận tất cả phần khổ đau, phiền não, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, để giúp đỡ mọi người, chúng sinh có được đời sống trí tuệ cao đẳng, hạnh phúc, bình yên, mà chúng ta giúp đỡ chân thành, bình đẳng, không điều kiện, không để lại ấn tượng, không để lại dấu vết, không mong cầu một chút đền đáp ơn huệ đối với mọi người, chúng sinh, đó là việc tự giác, tự nguyện. Xả là sự buông bỏ mọi thứ, những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, sự phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri, tà kiến, phiền não, khổ đau, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, mà chúng ta đang phải trả nghiệp báo trong vũ trụ nhân sinh này. Nói cách khác, xả là sự kính tặng, ban tặng, cho đi tất cả những điều tốt đẹp, tất cả những gì mà chúng ta có được, như danh vọng lợi dưỡng, vinh hoa phú quý, tài, sắc, danh, thực, thuỳ, để giúp ích cho mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, đúng như đạo lý, phương pháp trong Phật pháp, ví như tu hành bồ tát đạo là lục độ ba la mật, là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ ba la mật, hay là sự bố thí cúng dường tài sản, của cải, vật chất, công sức, tinh thần, cúng dường chính pháp Phật pháp, vô uý cúng dường. 
“Nhà Phật lấy từ bi làm gốc phương tiện làm cửa”, tức là nói Phật pháp lấy từ bi thương sót, quan tâm, giúp đỡ bình đẳng cho tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, làm cội gốc, làm nền tảng cơ bản, kiên cố, bền vững cho chúng ta tiến bước trên con đường tu đạo vô thượng bồ đề. Phật pháp làm pháp phương tiện thiện xảo để giáo hoá, thức tỉnh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. 
Tâm từ bi hỷ xả là tâm chân thành, thanh tịnh, giác ngộ chính giác, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, để truyền đạo, giới thiệu Phật pháp, hoằng pháp lợi sinh cho mọi người, chúng sinh đi đúng phương hướng chính tri, chính kiến trong Bát chính đạo. Như vậy, chúng ta có được tâm từ bi hỷ xả, là chúng ta có được rất nhiều lợi ích trí tuệ, công đức, phước báu. Nhưng trong thực tế cuộc sống của chúng ta tồn tại rất nhiều những mâu thuẫn, lực cản, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, phiền não, khổ đau làm cản trở chúng ta tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn và phát tâm bồ đề. Nguyên nhân là do từ vô thỉ kiếp đến nay, chúng ta đã huân tập rất nhiều lần các tập tính thói quên nghiệp chướng xấu tà ác, như tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri, tà kiến, ích kỷ keo kiệt, tự tư tự lợi, ghen ghét đố kỵ, tự cao tự đại, phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, tất cả những điều đó làm cho tâm chúng ta bi tổn thương, khổ đau, phiền não, mà không tìm ra cách nào để giải thoát khỏi chúng. Nhưng thật may mắn cho chúng ta có được nhân duyên, thiện căn, công đức, phước đức sâu dày, cho nên đã được quả báo làm thân người, mà lại được sinh ra trong thời kỳ có chính pháp Phật pháp trụ thế, và lại còn được các bậc thượng thiện tri thức, người truyền đạo, giới thiệu Phật pháp, giảng giải Phật pháp rất chu đáo, tận tâm, tận lực an bài một cách có dụng tâm, có ý đồ, trình tự khoa học hiểu biết trí tuệ cao đẳng dễ hiểu, phù hợp với mọi căn cơ, căn tính của chúng ta, giúp ích cho chúng ta nhanh chóng bước vào cửa nhà Phật, thâm nhập vào kinh giáo, rất ung dung, tự tin, kế thừa được huệ mạng của chư Phật Như Lai, vững bước tiến theo con đường cầu đạo vô thượng chính đẳng chính giác.
Tâm tham, chính là sự tham danh vọng lợi dưỡng, vinh hoa phú quý, tài, sắc, danh, thực, thuỳ, nói chung là sự tham đắm, mờ mịt, ham say hưởng thụ khoái lạc đời thường, như năm dục sáu trần. Nguyên nhân dẫn đến tâm tham là do vô minh, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, từ vô thỉ kiếp đã huân tập đến nay, và cũng là do chúng ta có phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, mới sinh ra trong sáu cõi luân hồi, ba đường ác và biến ra mười pháp giới.
Tâm sân, chính là sự sân hận, oán trách, hận thù chán ghét, khó chịu khi gặp phải nghịch cảnh, bi tổn thương mất mát, khổ đau, phiền não, thì liền nổi tâm sân hận, mất lý trí, tự hại mình hại người, mà không biết tất cả đều là do nhân duyên quả báo tự làm tự chịu. Phật nói “Một ngọn lửa sân đốt cháy cả rừng công đức”, tức là chỉ một lần sân hận nóng giận thì làm tiêu tan, mất đi rất nhiều công đức, phước báu, mà chúng ta đã tu hành, tạo dựng trong quá khứ và hiện tại, chính vì thế mà trong đời sống hằng ngày chúng ta phải luôn cảnh giác, luôn luôn “Niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, niệm thí, niệm giới, niệm thiên”, tức là luôn giữ gìn chính niệm để chế ngự, tiêu trừ những ngọn lửa sân hận, nóng giận, oán thù, không cho nó có cơ hội khởi hiện hành, khởi tác dụng, chúng ta làm được như vậy, thì tâm chúng ta luôn giữ được sự tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững, thanh tịnh đến tịch diệt.
Tâm si là sự si mê, điên đảo, mờ mịt, bị các sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, cám dỗ, mê hoặc chúng ta, làm cho chúng ta bị mê si, nhận lầm những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, làm thật tướng. Những thứ giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng đó, chúng chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn, như từng sát na sinh diệt rất nhanh, tức là tất cả mọi thứ trong vũ trụ nhân sinh này, đều do nhân duyên quả báo mà tạo thành, và tồn tại khách quan, vô thường, theo quy luật nhân quả tương tác tuần hoàn, không gián đoạn, như quy luật tứ diệu đế, mười hai nhân duyện, mười tám giới, sinh trụ dị diệt, sinh lão bệnh tử như cuộc đời của chúng ta vậy. Tuy nhiên trong đời sống chúng ta cần dựa vào các giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, vô thường đó, để tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A di đà Phật được công phu thành khối, lý nhất tâm bất loạn, được minh tâm kiến tính thành Phật. Khôi phục cái chân thật bất biến, đó chính là chân như bổn tính, trí tuệ Phật trong mỗi con người chúng ta, đã tồn tại hiện hữu từ nhiều đời, nhiều kiếp, từ vô thỉ kiếp đến nay, chúng vẫn theo sát và bám chắc vào tâm của chúng ta, cho đến khi nào chúng ta thật sự “tín giải hành chứng” được Phật pháp, phục hồi được hoàn toàn chân như bổn tính và chứng đắc đạo vô thượng chính đẳng chính giác.
Tâm mạng là chính mạng trong Bát chính đạo, đậy cũng chính là thân thể của chúng ta, sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, tạo ra sáu thức, hay gọi là mười tám giới. Chúng ta biết thân thể của chúng ta là do nhân duyên mà hợp thành, có thể nói là do thần thức và vật chất tạo ra thân thể của chúng ta. Thân thể vật chất là sự tạo hợp thành từ bốn đại tự nhiên như đất, nước, lửa, gió, còn thần thức của chúng ta là do vô minh và hành, trong mười hai nhân duyên mà hợp thành, tức là do nghiệp nhân trong đời quá khứ chúng ta, đã tạo ra nhân duyên của ngũ giới, thập thiện, cho nên đời này chúng ta gặp được thượng duyên là cha mẹ sinh thành, nuôi dưỡng và chúng ta có mặt trên cuộc đời này. Như vậy, chúng ta có mặt trên cuộc đời này, là quả của nhân quá khứ và lại được kết hợp với nhân mà chúng ta đang tạo nghiệp trong kiếp này, để rồi chuyển thành quả mới của kiếp sau, cứ như thế mà nhân duyên quả báo tương tác tuần hoàn không hề gián đoạn. Nó đã khiến cho chúng ta phải trôi lăn trong lục đạo luân hồi và ba đường ác, chịu biết bao nhiều khổ đau, phiền não, tà ác, không biết đến ngày nào được giải thoát, thật là đáng thương xót vô cùng. Chúng ta coi thân mạng này chính là của chúng ta và đến khi chết là hết, nhưng kỳ thật không phải chết là hết, mà thân thể của chúng ta là giả tướng, giả tạm, theo quy luật sinh lão bệnh tử, vô thường, chúng chỉ cùng lắm tồn tại mấy chục năm, nay còn mai mất, sống ngày nay không biết ngày mai ra sao, thật là si mê, mờ mịt, thật đáng thường xót vô cùng. 
Chúng ta nhờ vào những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, để tu thật tướng, thật tính, bất sinh bất diệt, tức là chúng ta cũng cần chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ thân thể, giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh của chúng ta là đúng. Nhưng không nên thoái quá, cũng không nên khổ hạnh, tất cả mọi thứ chúng ta giữ chừng mực, mức độ, hợp lý là đủ, không nên vướng mắc, tham đắm hưởng thụ quá mức, mà chúng ta nên giữ trung đạo. Chúng ta nuôi dưỡng, bảo vệ thân thể phải bằng thực phẩm, vật chất tốt, do chính công sức chúng ta làm ra, đúng với luật pháp và đúng với giới luật chính pháp trong Phật pháp, đó chính là sự tu trì giới luật tinh nghiêm. Chúng ta nuôi dưỡng bảo vệ thân thể như trên, đúng lý, đúng pháp, thì chắc chắn chúng ta luôn có được sức khoẻ tốt, tinh thần sung mãn, tuổi thọ thêm lớn, và có được rất nhiều lợi ích trí tuệ, công đức. 
Chính mạng là sự hiểu thấu, biết rõ nhất về cuộc sống vật chất và tinh thần, sinh mạng của chúng ta do đâu mà được sinh ra trên đời này, và đến khi hết thọ mạng, chết thì đi về đâu, sống để làm gì, tạo ra nhân duyên gì để được quả báo giải thoát sinh tử trong tương lai, tất cả những điều đó chúng ta cần phải hiểu rõ ràng, minh bạch nhất. Chúng ta biết nhiều người trên thế gian rất sợ chết, tham sống hưởng thụ, họ chỉ nghĩ chết là hết nợ, hoặc họ nghĩ sống được ngày nào thì cứ hưởng thụ ngày đấy, và gây ra nhiều tội lỗi như vi phạm pháp luật hay vi phạm giới luật trong nhà Phật, như năm giới, mười thiện, còn chết đoạ lạc vào ba đường ác, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, chịu tội khổ đau, phiền não, cực ác tột khổ, để trả nghiệp do nhân đã tạo trong đời hiện tại, thật đáng thương xót vô cùng. Nhưng trên thực tế đời sống của chúng ta biết những điều đó là tội lỗi rất đáng thương, đáng sợ, nhưng chúng ta lại không nhanh tróng tự sửa chữa, thay đổi, tự làm mới tư tưởng, kiến giải, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, để chuyển thành chính tri, chính kiến trong Bát chính đạo. Chúng ta nên gieo nhân chính thiện để được quả chính thiện trong kiếp này và kiếp sau ít nhất cũng được quả báo ở ba đường thiện, làm nhân, thiên, tuy còn bị luân hồi trong sáu cõi nhưng còn có cơ hội được làm lại, học Phật tu pháp tốt hơn rất nhiều so với ba đường ác, thời gian thọ chịu tội trả nghiệp nhân ở ba đường ác là vô lượng vô biên thời gian, vì chúng ta tu hành có tiến, có thoái, có phân biệt, chấp trước, vọng tưởng rất nặng, chư Phật Như Lai vì chúnh sinh mà giảng nói, một ngày trong cõi địa ngục dài bằng khoảng 1.700 năm ở trên cõi người. 
Chúng ta học Phật tu pháp hiểu thấu được Phật pháp, lý giải hành chứng, giác ngộ chính giác được tất cả những giáo lý trong kinh giáo, thì chúng ta không hề sợ chết, vì chúng ta đã nắm vững được nguyên tắc, đạo lý nhân quả tuần hoàn không gián đoạn, gieo thiện nhân thì gặp thiện quả, gieo ác nhân thì bị ác quả, hằng ngày chúng ra đang tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. Chúng ta có đầy đủ điều kiện là phát được bồ đề tâm, thì khi chúng ta hết thời gian thọ mạng, thì được A di đà Phật cùng hai vị Bồ tát là Quán Thế Âm, Đại Thế Chí và các thánh chúng ở thế giới Tây phương cực lạc đến tiếp dẫn, chỉ trong khoảng một niệm liền đến nơi thế giới Tây phương cực lạc. Được hoá sinh trong hoa sen thất bảo, hoa khai kiến Phật, đây giống như việc chúng ta đi di dân, từ thế giới Ta bà ô nhiễm đi sang thế giới Tây phương cực lạc thanh tịnh tịch diệt, sống mà được vãng sinh, chứ không phải là chết rồi mới vãng sinh, trước lúc ra đi tất cả mọi thứ đều rõ ràng, minh bạch, tỉnh táo, sáng suốt, trí tuệ, đây là việc tốt nhất không thể nói hết bằng lời, thật không thể nghĩ bàn. Chúng ta được vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc, cho dù là hạ phẩm hạ sinh nhưng cũng có đầy đủ “thể dụng” vạn đức, vạn năng, toàn năng, vì được oai thần lực của đức Phật A di đà và mười phương ba đời chư Phật Như Lai, gia trì cho chúng ta cho đến khi nào chúng ta tu hành các công đức đến viên mãn, khôi phục lại hoàn toàn chân như bổn tính. Chúng ta cần phát được bồ đề tâm bền vững, trí thành tha thiết cầu nguyện, từng giờ, từng phút, từng giây, được vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc tu hành viên mãn thành Phật Như Lai.
Tâm nghi, chính là tâm tự ty, nhút nhát, phân vận, nghi ngờ, thờ ơ, hoang mang, đấu tranh, mâu thuẫn, mờ mịt, không tin tưởng vào bản thân, cũng như tin vào chân tướng của tất cả sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này. Bổn sư Thích Ca Mô Ni Phật đã bình đẳng vì chúng ta giảng nói, truyền đạo, giới thiệu Phật pháp minh bạch, thấu triệt, tất cả mọi thứ trong vũ trụ nhân sinh này, đều là những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, do chính chúng ta có tâm phân biệt, vọng tưởng, chấp trước, mới biến hiện ra sáu cõi ba đường ác và mười pháp giới. Chúng ta bị những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu ta ác, vô minh che lấp trí tuệ Phật, cho nên đã không tin vào sự toàn tri vốn đã có sẵn đủ mọi thứ tròn đầy trong tâm mình, đó chính là Phật tính, chân như bổn tính trong mỗi con người chúng ta. Hơn thế nữa chúng ta sinh ra trong thế gian, có được nhân duyên cực chính thiện, may mắn, tốt lành, đó chính là có Phật pháp trụ ở thế gian, khoảng mười hai nghìn năm, còn thời gian sau đó hàng triệu năm không có Phật pháp, giáo pháp của chư Phật Như Lai, phải đợi đến khi đức Phật Di Lặc xuất hiện. 
Tuy rằng hiện nay đức Bổn sư Thích Ca Mô Ni Phật không còn trụ thế, nhưng Phật pháp mà Ngài đã vì chúng ta, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới để lại với 8.400 pháp môn, trong ba đại tạng kinh và mười hai giáo. Ngài truyền đạo, giới thiệu Phật pháp bình đẳng cho chúng ta ngày nay, có được lợi ích trí tuệ công đức, phước báu, vô lượng vô biên, giúp cho vô số chúng sinh được giải thoát sinh tử luân hồi, chứng nhập Niết bàn. Chính vì điều cực thiện, tốt lành, may mắn đó nên chúng ta tự tin vào chính bản thân mình. Tin vào Bổn sư Thích Ca Mô Ni Phật giới thiệu 8.400 pháp môn, giúp chúng ta giải thoát sinh tử luân hồi, có được đời sống trí tuệ cao đẳng, tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. Tin vào đức Phật A di đà với bốn tám đại nguyện, vì chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới mà sáng lập thế giới Tây phương cực lạc, để giúp ích tất cả chúng sinh bình đẳng học Phật, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm nhất hướng chuyên niệm A di đà Phật được công phu thành khối, lý nhất tâm bất loạn, được minh tâm kiến tính, khôi phục được chân như bổn tính, có đủ điều kiện vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc tu hành viên mãn thành Phật Như Lai.
Tâm tà tri, tà kiến, chính là những tư tưởng đạo đức phong cách hiểu biết sai lầm, lệch lạc, mâu thuẫn lẫn lộn, giữa chính thiện xấu tà ác, thật giả, đúng sai, phải trái, tốt xấu, như vậy chúng ta muốn thay đổi tà tri, tà kiến, tức là sửa chữa, thay đổi, tự làm mới tư tưởng kiến giải, suy nghĩ sai lầm, nhầm lẫn của chúng ta đối với chân tướng của tất cả sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, của chúng ta thành chính tri, chính kiến trong Bát chính đạo. Cụ thể là những tư tưởng, kiến giải, những tập tính thói quên nghiệp chướng xấu tà ác, sở thích hưởng thụ chạy theo năm dục sáu trần, tham đắm, vướng mắc vào những thứ giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, chỉ tồn tại nhất thời, cảm giác nhất thời. Chúng chỉ hiện hữu tạm thời trong khoảng thời gian ngắn ngủi, làm cho chúng ta thấy rất mâu thuẫn, trái ngược, khó lý giải đâu là đúng sai, thiện ác, phải trái, thật giả lẫn lộn, nói chung là pháp thế gian phần nhiều là do tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác và vô minh che lấp trí tuệ Phật. 
Chúng ta biết trong a lại gia thức của chúng ta, là kho lưu trữ tất cả những giữ liệu, thông tin, do sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, tạo lên sáu thức. Chúng ta biết bộ não của chúng ta khi tiếp xúc với các pháp thế gian và pháp xuất thế gian tạo ra ý thức, chính là sự so sánh với thông tin dữ liệu tập tính ở bên ngoài môi trường, so sánh với các thông tin dữ liệu tập tính của các sự vật, các sự việc, hiện tượng, đã có trước trong a lại gia thức. Từ đó mới tạo ra sự phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, về các sự vật, sự việc, hiện tượng đúng sai, phải trái, tốt xấu, đẹp xấu, thiện ác, mầu sắc hình thể, không gian, thời gian, trong vũ trụ nhân sinh này. A lại gia thức của chúng ta không những lưu trữ những thông tin giữ liệu của chúng ta, và lưu chữ các dữ liệu thông tin tập tính của các sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh của kiếp này, mà là của nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ, chúng ta mang đến kiếp này. Chúng ta có thể quan sát một đứa bé mới ra đời, chưa có ai dạy chúng thì chúng đã có sẵn những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, như việc chia quà bánh không đều, đứa này được chia nhiều quà bánh hơn hoặc có đồ chơi tốt hơn đẹp hơn, thì chúng liền ghen ghét đố kỵ, hoặc có đứa thì hay khóc, ham ăn uống, ham chơi tuy nhiên cũng có một số có ý thức tốt, nhưng đại đa số là tập tính thói quen nghiệp chướng của chúng ta mang đến kiếp này, đều là xấu tà ác, bất thiện, vì nếu chúng ta không có tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, mà là nhân duyên chính thiện, giác ngộ chính giác, thì chúng ta đã được quả báo ở cõi trời, hoặc tốt hơn nữa là quả báo thoát ra khỏi tam giới, giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, đâu còn ở kiếp người trong sáu cõi luân hồi để trả nghiệp nhân như hiện nay. 
Chúng ta biết khi mới sinh ra a lại gia thức của chúng ta như trang giấy trắng, chưa có nhận thức, ý thức, phân biệt, chấp trước, vọng tưởng rất nhẹ, do tập tính thói quen nghiệp chướng mang lại, nhưng khi chúng ta trưởng thành có được sự nhận biết ý thức về tất cả các việc, các vật, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, thì liền sinh ra phân biệt, chấp trước, vọng tưởng rất nhiều, rất nặng, bám chặt vào những cái vật thể có trước, khi sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần hình thành sáu thức, đây là căn nguyên của các sự mâu thuẫn, đấu tranh, khổ đau, phiền não, thật đáng thương xót vô cùng. Đức Phật nói, bậc A la hán có tâm không phân biệt, chấp trước, đã thoát khỏi tam giới, không phải chịu sinh tử luân hồi trong sáu cõi, mà đã mở được cánh cửa trong a lại gia thức, biết được năm trăm kiếp quá khứ, và năm trăm kiếp tương lai, nhưng khi mới biết được điều đó thấy được năm trăm kiếp luân hồi trong lục đạo, sợ quá mà toát cả mồ hôi máu, thật đáng sợ vô cùng.
Chúng ta rất may mắn có được nhân duyên, thiện căn, công đức, phước đức sâu dày, cho nên mới có được thân người và được học Phật pháp biết được cách đây khoảng 2555 năm trước, có đức Bổn sư Thích Ca Mô Ni Phật ra đời và trụ thế tám mươi năm đã giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, hoằng pháp lợi sinh, truyền đạo, giới thiệu Phật pháp, nói ra 8.400 pháp môn, ba đại tạng kinh, mười hai giáo để giúp đỡ, thương sót chúng ta, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, bình đẳng được giải phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Người thật sự thông minh, hiểu biết, trí tuệ, nhân duyên, thiện căn, phước đức, công đức sâu dầy, thì đem hết tâm tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri, tà kiến, ích kỷ keo kiệt, tự tư tự lợi, ghen ghét đố kỵ, tự cao tự đại, phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, đều buông bỏ hết, vì tất cả những thứ đó đều là giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, đều là tập tính nghiệp chướng xấu tà ác, mà từ đó sửa chữa, thay đổi, tự làm mới tất cả những thứ đó bằng trí tuệ Phật. Tức là chúng ta mang cuộc sống hiện tại của chúng ta sửa chữa, thay đổi, tự làm mới bằng cuộc đời tám mươi năm của Bổn sư Thích Ca Mô Ni Phật, làm đến được 100% như vậy, thì chúng ta đã kế thừa được huệ mạng của chư Phật Như Lai, và chúng ta cũng chính là Bổn sư Thích Ca Mô Ni Phật tái sinh, ứng thân và trụ thế để giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, hoằng pháp lợi sinh. 
Tâm ghen ghét đố kỵ, khi thấy người khác tốt đẹp hơn mình một số điểm nào đó, hoặc thấy mình thấp kém hơn về vật chất và tinh thần. Tức là sự so sánh phân biệt, chấp trước, vọng tưởng rất nặng, về tất cả các sự vật, các sự việc, hiện tượng, hữu hình và vô hình trong vũ trụ nhân sinh này. Từ đó nảy sinh lòng ham muốn, tham lam, đố kỵ, thậm chí muốn chiến đoạt bằng mọi cách, hám hại, phá hoại sự thành công tốt đẹp của người khác. Khiến cho họ phải khốn khổ, nghèo đói, hèn mọn, hổ thẹn, đến nhà tan người chết không buông tha. Đây là sự tạo tội nghiệp vô cùng ác liệt, cái tâm ghen ghét đố kỵ, hãm hại người tốt, người hiền tài, người có công với mình, có công với cộng đồng, xã hội, quốc gia, nhân loại là điều vô cùng tội lỗi, nhất định gặp quả báo phải đoạ lạc vào ba đường ác, thật đáng thương xót vô cùng. 
Nhưng thực ra bạn có tâm ghen ghét đố kỵ, hãm hại họ, thì bạn có làm được điều đó không, xin thưa với bạn việc thành công tốt đẹp đó, bạn không thể phá hoại được, mà bạn chỉ chuốc lấy tội lỗi, nghiệp báo cực trọng, tâm của bạn luôn khó chịu, lo lắng, phiền não, vướng bận mà thôi. Vì đây chính là quy luật nhân quả, chúng ta đã tạo nhân chính thiện, tốt lành trong quá khứ, thì nhất định được hưởng quả báo chính thiện, tốt lành thành đạt, tướng an vui, tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên, không ai có thể thay đổi được quy luật đó. Còn tất cả các việc mà chúng ta làm mà không thành đạt, không có được kết quả tốt đẹp như mong muốn, hoặc là thành đạt, đều là do chính chúng ta tạo ra nhân duyên tốt xấu, chính thiện hay tà ác, phước báu công đức hay tội lỗi xấu tà ác, nó sẽ quyết định quả báo của chúng ta thành công tốt đẹp hay thất bại xấu tà ác, không ai thay đổi được quy luật nhân quả đó. Chúng ta gieo thiện nhân thì được thiện quả, gieo ác nhân thì bị ác báo, không ai có thể thay đổi được, không liên quan đến việc có người đến hãm hại, phá hoại chúng ta, việc mà chúng ta thành đạt thì nhất định thành đạt, còn việc không thành đạt, thì cho du không có ai đến phá hại, thì chúng ta cũng không thành đạt. Chúng ta biết được quy luật này thì nhất định từ nay trong đời sống hằng ngày, nếu có người đến phá hoại việc tốt, hãm hại chúng ta thì chúng ta cũng vui vẻ tiếp nhận, coi như là người bạn đến thăm chúng ta vậy. Chúng ta biết được tâm ghen ghét đố kỵ, hãm hại người hiền tài, việc đúng đắn tốt đẹp, không những không làm ảnh hưởng đến đối phương, đối tượng, mà ngược lại chỉ làm cho chính chúng ta thua thiệt, đau khổ, phiền não mà thôi, tự làm tự chịu thật là đáng thương xót vô cùng. Đối trị với tâm ghen ghét đố kỵ chính là tâm tuỳ hỷ công đức chư Phật Như Lai. 
Tâm ích kỷ keo kiệt, là sự tự tư tự lợi mà không lợi tha, chỉ biết vì mình mà không có tâm giúp đỡ mọi người, tức là tham đắm vào cái tôi, cái của tôi. Tất cả cái khác, cái của người khác, của tập thể thì thờ ơ, không quan tâm đến và cũng không tham gia các hoạt động từ thiện vì cộng đồng, vì xã hội loài người, không muốn chia sẻ những điều tốt đẹp thành quả với mọi người xung quanh, sống khép kín như tạo ra sự cô lập, cô đơn, buồn chán, thất vọng. Điều đó tạo ra nhà tù tự giam mình trong một không gian và thời gian nhỏ hẹp, thấp hèn, thật đáng thương xót vô cùng. Bổn sư Thích Ca Mô Ni Phật khuyên bảo chúng đệ tử không nên có tâm tự tư tự lợi, mà phải có tâm lợi tha, tức là không nên khởi tâm thanh văn, duyên giác mà phải khởi tâm bồ đề bền vững, tu hành bồ tát đạo để giúp đỡ, thương sót bình đẳng cho mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm được minh tâm kiến tính thành Phật. Tức là phải phát tâm tự độ và độ tha mọi người cùng giác ngộ, được giải thoát sinh tử luân hồi, khi hết thời gian thọ mạng đồng cùng được vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc, tu hành viên mãn thành Phật Như Lai. 
Chúng ta biết đối lập, đối trị với tâm ích kỷ keo kiệt là tâm bố thí, cúng dường, từ bi hỷ xả. Người hiểu thấu Phật pháp, chân thật thông minh trí tuệ, thiện căn, mang tất cả những thứ giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng đó, buông bỏ không cho chúng vướng bận, ràng buộc, chi phối, ô nhiễm đến chúng ta, mà chính chúng ta tự giác học Phật tu pháp, nương nhờ vào các giả tướng để tu chứng thật tướng, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật.
Tâm tự cao tự đại, chính là sự kiêu căng hách dịch tự đề cao bản thân mình, mà coi thường mọi người, coi thường các sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này. Đó cũng chính là sự coi thường kỷ cương phép nước, coi thường luật pháp, vi phạm luật pháp, vi phạm nguyên tắc, đạo lý về đạo đức lối sống, thuần phong mỹ tục, vi phạm giới luật trong Phật pháp. Người có tâm kiêu căng coi thường mọi người, không những khiến cho mọi người bị khó chịu, bực tức, sân hận, oán trách, mà cũng là coi thường chính bản thân mình. Tự kiêu tự đại là bạn tự bó hẹp bản thân mình, vì bạn gieo nhân coi thường mọi người, nên quả báo nhận được là mọi người coi thường lại bạn, xa lánh bạn. 
Chúng ta biết cách đối trị với tâm tự cao tự đại là tâm chân thành, trí thành cung kính, lễ phép, khiêm tốn, giản dị, tiết kiệm, hiền hoà, dung hoà đối với mọi người, tôn trọng mọi người một cách bình đẳng, dù đó là người đúng sai, phải trái, chính thiện tà ác, tốt xấu, tất cả đều được tôn trọng, được lễ kính như nhau, không phân biệt. Vì tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới đều là Phật trong tương lai, và được tôn trọng lễ kính như lễ kính đối với chư Phật Như Lai vậy, trong tâm hợp với lễ kính chư Phật Như Lai, bề ngoài hợp với lễ tiết, phù hợp với hoàn cảnh, phong tục tập quán, của từng nền văn hoá, tôn giáo, đảng phái, quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới. Chúng ta lễ kính, trí thành cung kính, tán thán, ca ngợi công đức, trí tuệ của chư Phật Như Lai, mà không lễ kính, trí thành cung kính, tán thán, ca ngợi, công đức, trí tuệ chính thiện của mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, thì việc đó chính là đại bất kính đối với chư Phật Như Lai. Vì tâm của chư Phật Như Lai luôn tâm niệm giúp đỡ, thương sót chúng ta, chúng sinh một cách bình đẳng với mười phương ba đời chư Phật Như Lai, không phân biệt, vọng tưởng, chấp trước. Tức là tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới là tâm của chư Phật Như Lai, vì tất cả chúng sinh đều là chư Phật Như Lai trong tương lai. 
Tâm xấu tà ác bao gồm các tâm tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri, tà kiến, tâm ích kỷ keo kiệt, tự tư tự lợi, ghen ghét đố kỵ, tự cao tự đại, tâm phân biệt, vọng tưởng, chấp trước. Tất cả những thứ đó đều là tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, tâm xấu tà ác là nguyên nhân sinh ra các ác pháp, tội lỗi, và cũng là nguyên nhân của quả báo luân hồi trong sáu cõi ba đường ác, thật đáng thương xót vô cùng. Tâm xấu tà ác còn thể hiện qua ý nghĩ tà ác, lời nói xấu tà ác, thân tạo ác, nghiệp làm tà ác, đến cái hình tướng cũng là xấu tà ác, vì tất cả các tướng, kể cả tướng mạo, nhận thức, hành vi, cảm xúc, thái độ của chúng ta cũng là do tâm tưởng sinh. Tất cả các tướng cũng là do nhân duyên quả báo tạo thành, các tướng hiện hữu mà chúng ta thấy được đều do tâm chúng ta chiêu cảm các hình tướng đó, tuỳ thuộc vào tâm của chúng ta, “tâm tịnh thì cõi nước cũng tịnh”, “cảnh tuỳ tâm chuyển”. Tức là nói người có tâm thanh tịnh thì ở đất thanh tịnh hiền hoà, người có phước ở đất phước, đất phước người phước ở, cũng cùng một đạo lý, giống như việc xem tướng đoán vận mạng, xem phong thuỷ vậy. 
Tâm xấu tà ác sinh ra tướng xấu tà ác, tâm chính thiện sinh ra tướng chính thiện, hiền hoà, hiểu biết, sáng suốt, trí tuệ cao đẳng, tâm từ bi bác ái, bao dung độ lượng, đây là nhân duyên quả báo tương tác tuần hoàn không gián đoạn. Tâm xấu tà ác cũng chính là thân, khẩu, ý nghiệp của chúng ta tạo tác và làm ra các sự vật, sự việc, hiện tượng có hại cho mọi người, nhân loại, chúng sinh khắp các pháp giới, thì đó chính là tâm xấu tà ác. Chúng ta trong cuộc sống hằng ngày làm ra các việc vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức lối sống, thuần phong mỹ tục, trái với đạo lý, đạo nghĩa, vi phạm các giới luật trong Phật pháp, thì được gọi là tâm xấu tà ác. Đây là các tội lỗi, tội nghiệp phải chịu quả báo luân hồi trong sáu cõi ba đường ác, chịu nhiều đau khổ, đoạ đầy, tập tính nghiệp chướng xấu tà ác, như lửa lớn đốt cháy thân người vậy, thật đáng thương xót vô cùng. Người có tâm xấu tà ác thì cuộc sống của họ rất khổ đau, phiền não mà không biết làm thế nào để thoát ra khỏi điều đó. Người có tâm xấu tà ác cách duy nhất tốt nhất là đến với nhà Phật, đến với 8.400 pháp môn, đến với các đạo lý, phương pháp trong ba đại tạng kinh và mười hai giáo pháp, để được giải thoát hoàn toàn tâm xấu tà ác. Chúng ta đến với cửa nhà Phật, nhà Phật là lấy từ bi hỷ xả làm gốc, chúng ta liền được hưởng sự thanh tịnh, bình yên bền vững.
Tâm chính thiện, chính là tâm bồ đề, tâm đại từ đại bi, tâm chân thành, thật thà, thành thật, trung thực, hiền hoà, khiêm tốn, giản dị, tiết kiệm, thanh tịnh, bình đẳng, giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, từ bi bác ái, bao dung độ lượng. Tâm chính thiện là nhân duyên của quả giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, trong sáu cõi ba đường ác, cũng là con đường của Bát chính đạo, tứ diệu đế và mười hai nhân duyên, mười tám giới. Chúng ta thường hay lầm tưởng giữa chữ thiện, nhân thiện của pháp thế gian mà quả báo là được ở ba đường thiện hưởng phước báu cõi nhân, thiên, vẫn trong lục đạo luân hồi. Đây là nhân duyên của việc thọ trì tu hành năm giới, mười thiện, còn chính thiện là trong pháp xuất thế gian, Phật pháp là pháp giải thoát, nhân duyên chính thiện có quả báo là được giải thoát sinh tử luân hồi, thoát khỏi tam giới, lục đạo luân hồi ba đường ác, và được chứng quả vị thành bậc Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, chư Phật Như Lai. Chúng ta biết khi tạo nhân thiện được hưởng quả thiện ở ba đường thiện, hưởng phước báo cõi nhân, thiên, tuy được rất nhiều niềm vui, hạnh phúc, khoái lạc, được hưởng thụ phước báu rất nhiều, nhưng vẫn trong lục đạo luân hồi. Khi chúng ta hưởng phước báu, mà không lo tạo phước, thì phước báu đó hết rất nhanh, đến lúc hưởng hết phước báu đó rồi, thì liền bị đoạ lạc ngay xuống ba đường ác. Vì khi hưởng phước thì tạo phước rất khó, hơn nữa khi hưởng phước chúng ta đã tạo thêm biết bao nhiêu là tội lỗi, đến khi bị đoạ lạc vào ba đường ác tính sổ luôn một lượt, phải chịu biết bao nhiêu khổ đau, cực ác tột khổ, thật đáng thương xót vô cùng. 
Khi thân mạng, lời nói, ý thức, việc làm của chúng ta đều chính thiện, thân mạng được nuôi dưỡng, chăm sóc bằng thức ăn thiện, do chính chúng ta làm việc chính đáng, đúng quy định trong giới luật Phật pháp, như chính nghiệp theo Bát chính đạo mà có được, lời nói của chúng ta cũng luôn nói những lời thiện như chúc mừng, tuỳ hỷ công đức cho mọi người, khi có được sự thành đạt chính thiện, ý nghĩ của chúng ta luôn nghĩ tới những điều lương thiện tốt đẹp của mọi người, việc làm của chúng ta là hoằng pháp lợi sinh, đúng với đạo lý nhân quả, phương pháp cảnh giới trong kinh giáo, tự độ mình và giúp đỡ, thương sót bình đẳng mọi người, được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, hiểu thấu buông bỏ, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. Đây tức là nói đến ba nghiệp thân, khẩu, ý nghiệp, của chúng ta luôn giữ ở cảnh giới chính thiện trong Bát chính đạo, thì là đúng đạo lý, nguyên tắc, phương pháp, và tương ứng với những điều mà chư Phật Như Lai đã giảng nói. 
Chúng ta biết ngày nay mọi người chủ yếu là lo hưởng phước, để thoả mãn bản thân mình, trong khi hưởng thụ phước báu, thì rất ít người lo tạo phước báu, công đức, thì phước báu đó hưởng thụ hết rất nhanh. Trong khi hưởng thụ phước báu chúng ta đã tạo ra rất nhiều tội lỗi, độc hại, làm cho chúng ta bị giản phước báu, trí tuệ, công đức, sức khoẻ, tuổi thọ. Đây cũng chính là nói con người thời kỳ này, tuy có may mắn gặp được chính pháp Phật pháp, nhưng do tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, tác động làm cho nhân duyên, thiện căn, phước báu của chúng ta ít đi. Con người thời nay có tâm phân biệt, chấp trước, vọng tưởng rất nặng, do có sự tác động bùng nổ của các nguồn thông tin dư liệu đa chiều, nhiều mâu thuẫn trái ngược nhau, chính thiện và xấu tà ác lẫn lộn trên toàn thế giới, từ hệ thống viễn thông, truyền hình vệ tinh, internet. Chúng ta học Phật tu pháp hiểu thấu cuộc sống con người là sinh lão bệnh tử luân hồi, là vô minh, khổ đau, phiền não, tập tính nghiệp chướng xấu tà ác, do chúng ta có tâm xấu tà ác cho nên chúng ta đã phải chịu quả báo sinh tử luân hồi trong sáu cõi ba đường ác, chịu bao nỗi sống khổ, ác độc đến cùng cực, cho đến tận ngày nay vẫn chưa được giải thoát ra khỏi lục đạo luân hồi. 
2. Quy luật nhân quả, là quy luật bất biến không ai thay đổi được, nhưng có sự bù trừ, bất cứ người nào tạo ra nhân duyên gì, thì phải chịu quả báo ấy, không ai có thể chịu thay thế cho ai được, chư Phật Như Lai cũng không chịu thay thế cho chúng ta được. Sự việc mà chúng ta đã tạo tác làm ra nhân duyên gì, thì nhất định phải nhận quả báo tương ứng đó, chúng ta gieo nhân thiện thì được quả báo thiện, chúng ta gieo nhân duyên ác nhất định phải nhận quả báo ác. Chúng ta gieo nhân duyên xấu tà ác thì quả báo ở ba đường ác, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Chúng ta gieo nhân thiện ở ba đường thiện, là phước báu của việc tu trì năm giới, mười thiện, thì được quả của ba đường thiện, cõi a tu la, người, trời. Chúng ta gieo nhân duyên giải thoát sáu cõi luân hồi, tu học theo Bát chính đạo, tứ diệu đế, mười hai nhân duyên, mười tám giới, lục độ vạn hạnh, niệm Phật cầu vãng sinh Tịnh Độ, Thiền định đến minh tâm kiến tính thành Phật. Nói cách khác là chúng ta gieo nhân của tam thừa, nhị thừa, đại thừa, Phật thừa, tương ứng với quả báo giải thoát nhận được là bậc Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, Phật Như Lai. 
Đa số chúng ta từ vô thỉ kiếp đến nay, đều gieo nhân ác của ba đường ác và nhân thiện ở ba đường thiện, cho nên chúng ta vẫn chưa ra khỏi sáu cõi luân hồi, việc chúng ta chịu quả bảo luân hồi là điều đương nhiên không thể thay đổi được. Việc nhân quả đó không ai có thể thay đổi, thay thế cho ai những quả báo thiện ác đó, nhưng cũng còn có cách gần giống như vây, đó là chúng ta giúp đỡ, thương sót những người bị quả báo ác, phải chịu sự sống khổ đau, phiền não, làm cho họ thức tỉnh, tự giác ngộ chính giác, tự cứu lấy chính mình, được tu học Phật pháp, hiểu thấu Phật pháp, phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Như vậy để giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, chỉ có con đường tốt nhất là tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. Tuy nhiên việc chúng ta đã tạo ra những nhân duyên ác, từ vô thỉ kiếp đến nay, thì chúng ta trong hiện tại và tương lai nhất định phải nhận quả báo ác đó. Nhưng vì chúng ta không hiểu được nhân duyên trong quá khứ là nhân thiện ác gì, và phải nhận quả báo gì, cho nên rất là mờ mịt, lo lắng, sợ hãi, oán trời tránh người, cho là bất công, như thật ra thì đó chính là nhân duyên do chính chúng ta đã tạo ra trong quá khứ, thậm chí là ngay hiện tại, chúng ta phải trả quả báo đó. Khi chúng ta hiểu thấu được quy luật nhân quả, hiểu thấu được Phật pháp, thì chúng ta biết được chân tướng cuả các sự việc, các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, để từ đó chúng ta vui vẻ, tự tại, tuỳ duyên nhận thọ quả báo, coi như là sự trả nợ nghiệp cũ. Như vậy, quả báo được thọ nhận, thì nhân duyên đã nợ trong quá khứ đến nay đã được trả hết, không còn nợ ai, trong tương lai có gặp lại oan gia trái chủ, thì là bạn tốt rồi. 
Chúng ta biết quy luật nhân quả tương tác tuần hoàn không gián đoạn, nhân chúng ta đã tạo ra trong quá khứ, đến thời điểm hiện tại gặp được duyên, hợp lại thành quả báo hiện tiền và quả hiện tiền lại hợp với nhân đang tạo và duyên trong tương lai, để tạo thành quả báo mới trong tương lai. Còn nghiệp mới chúng ta biết được điều đó rồi, không nên tạo nữa, mà chỉ tạo những công đức mà thôi, công đức chúng ta rất cần có. Vì chỉ có nhờ công đức chúng ta mới có thể giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, và chỉ có công đức chúng ta mới phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, cũng chỉ có công đức mới giúp chúng ta có được cuộc sống hiểu biết trí tuệ cao đẳng, thể lực mạnh khoẻ, tinh thần sung mãn, cả đời không bệnh, không già, không chết. Luôn giữ được tâm thanh tịnh đến tịch diệt, đến hết thời gian thọ mạng là sống mà được vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc, bất thoái thành Phật Như Lai, chứ không phải là chết do ốm đau, bệnh tật, khổ não, bị luân hồi trong sáu cõi và ba đường ác, chịu mọi sự sống khổ đau, cùng cực, không biết đến ngày được giải thoát, thật đáng thương xót vô cùng. Chỉ có công đức mới có thể không tạo ra duyên xấu tà ác, để hợp với nhân xấu tà ác đã tạo trong quá khứ, để kết thành quả báo xấu tà ác hiện tiền. Như vậy chỉ có tạo công đức mới giúp chúng ta có được lợi ích hiểu biết trí tuệ cao đẳng, điều kiện thuận lợi, duyên lành, để chúng ta tu hành 8.400 pháp môn. Chúng ta có thể chọn một hoặc một số pháp môn phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, môi trường sống sinh hoạt và làm việc, phù hợp với căn cơ, nhân duyên, thiên căn, phước đức, công đức, của chúng ta để đạt được hiệu quả lợi ích trí tuệ, công đức, phước báu lớn nhất, nhiều nhất và sớm đạt đến được viên mãn thành Phật Như Lai. 
Đức Phật nói, chúng ta sinh ra được làm thân người là điều rất khó, vì nhân chúng ta đã tạo trong quá khứ, phải được kết hợp với duyên ở đời này, quả báo chúng ta được thân làm người phải đúng duyên, tương ứng với cha mẹ, đúng với các việc, các vật, hoàn cảnh, cảnh giới, thời gian, không gian, địa điểm, nơi chúng ta trả nghiệp báo. Như vậy việc nhận được quả báo thân người là việc rất khó, còn phải gìn giữ tu hành tạo nhân chính thiện, để trong kiếp sau tiếp tục được làm thân người con khó hơn. Chúng ta được quả báo thân người là điều tốt lành, hiếm có lắm, nhưng được gặp Phật pháp học Phật tu pháp hiểu thấu Phật pháp, thì đó là một điều rất hiếm có vô cùng. Chúng ta được làm thân người là điều rất khó, nhưng được làm thân người có hiểu biết trí tuệ cao đẳng, có nhân duyên, thiện căn, phước báu, công đức, được gặp Phật pháp còn khó hơn gấp nhiều lần. Vì chúng ta đã bị luân hồi trong sáu cõi ba đường ác, nhiều đời, nhiều kiếp, từ vô thỉ kiếp đến nay, và nhiều đời đã có được thân người nhưng không đủ điều kiện, không có nhân duyên, thiện căn, phước báu, công đức, để bước vào cửa nhà Phật. Cho dù cửa nhà Phật luôn luôn rộng mở, bình đẳng, vui vẻ tiếp đón, giúp đỡ, thương sót, giới thiệu Phật pháp cho chúng ta, không phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, tất cả đều minh bạch, thấu triệt, giác ngộ chính giác. Cửa nhà Phật luôn rộng mở cho chúng ta bước vào, để có được chân thật lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, được hưởng cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. 
3. Công đức, phước báu, là tất cả những việc mà chư Phật Như Lai dậy bảo, truyền đạo, giới thiệu Phật pháp bình đẳng cho chúng ta, thì chúng ta nhất định học tập làm theo, còn những việc chư Phật Như Lai khuyên bảo chúng ta không nên làm, thì nhất định chúng ta không nên làm. Tất cả những việc đó chính là việc tạo công đức, phước báu tốt nhất. Tức là tất cả các việc chính thiện chúng ta nên làm, còn những việc xấu tà ác, bất thiện chúng ta không nên làm. Không những chúng ta y pháp tu hành, mà còn phải phát được tâm bồ đề bền vững, giúp đỡ tất cả chúng sinh hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, bỏ ác tu thiện, bỏ tà quy chính, để trở về tu hành các công đức, làm các việc chính thiện, thì công đức đó đạt được là vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn. Chúng ta biết những việc cụ thể để có được công đức, phước báu, đó chính là tu hành Phật pháp bằng 8.400 pháp môn, trong đó pháp môn Tịnh Độ tông là trì danh niệm Phật “Nam mô A di đà Phật” mạng lại công đức nhiều nhất, lớn nhất và phù hợp với tất cả căn cơ của chúng ta trong thời kỳ này. Trong thực tế cuộc sống có rất nhiều người, có được thành tựu, thực sự “lý giải hành chứng” được Phật pháp bằng pháp môn niệm Phật. Chúng ta học theo ba đại tạng kinh và mười hai giáo, trong đó có những bộ kinh rất hay là tinh hoa trong nhà Phật, đó chính là Bộ Kinh A di đà, Quán Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Bát Nhã, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Đại Bát Niết Bàn, Kinh Địa Tạng, Phẩm mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ tát, Phẩm Đại Thế Chí niệm Phật viên thông chương, Bốn tám đại nguyện của đức Phật A di đà, sáng lập thế giới Tây phương cực lạc. Tất cả những việc chúng ta y như kinh giáo mà tu hành, đi theo những lời giáo huấn, truyền đạo, giới thiệu của chư Phật Như Lai mà làm theo, thì đều có được lợi ích hiểu biết trí tuệ, công đức, phước báu, vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn. 
Khi chúng ta tu hành được những lợi ích hiểu biết trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báu viên mãn trong đời này, và từ vô lượng kiếp trong quá khứ đến nay, chúng ta đều phát nguyện hồi hướng tất cả những công đức, phước báu đó, đến tất cả pháp giới chúng sinh quy về thế giới Tây phương cực lạc, nơi có vị đạo sư A di đà Phật bình đẳng tiếp dẫn cho tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, có đầy đủ điều kiện, công đức, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, tâm bồ đề, về tụ hội tại một nơi trang nghiêm thanh tịnh tịch diệt, thế giới Tây phương cực lạc, tu viên mãn thành chư Phật Như Lai.
4. Tịnh Độ tông là pháp môn niệm Phật, trì danh hiệu Phật “Nam mô A di đà Phật” hoặc “A di đà Phật”, đây là pháp môn tốt nhất, phù hợp với căn cơ chúng sinh nhiều nhất, và mang lại chân thật lợi ích hiểu biết trí tuệ, công đức, phước báu lớn nhất, đây là pháp môn đặc biệt “Niệm Phật thành Phật”, nhân quả đồng thời, “niệm Phật” là nhân, mà “thành Phật” là quả. Như vậy thì tướng của chúng ta, cùng với tướng của tất cả chúng sinh tuy có khác nhau nhưng cùng chung một “bản thể”, đó chính là pháp thân của tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, là như nhau, cũng như pháp thân của mười phương ba đời chư Phật Như Lai, không có gì khác biệt, đồng thể, Phật tính. 
Chính vì vậy, khi chúng ta cất lên câu niệm Phật “Nam mô A di đà Phật”, là chúng ta đang quy về niệm bản thể, bản giác, pháp thân của chính chúng ta, cũng là của tất cả chúng sinh và cũng là của tất cả mười phương ba đời chư Phật Như Lai, không có bỏ sót bất cứ một vị Phật nào, một chúng sinh nào. Chúng ta niệm Phật “Nam mô A di đà Phật”, là ca ngợi công đức, vạn đức, vạn năng, của tất cả chư Phật Như Lai và cũng chính là việc tuỳ hỷ công đức, xưng tán chư Phật Như Lai, công đức lợi ích trí tuệ mà chúng ta có được thật là vô lượng vô biên, không thể tính đếm hết, không thể nghĩ bàn. Như vậy, chúng ta biết tướng của tất cả chúng sinh và vạn sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, là giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, vô thường, và đều tuân theo quy luật tự nhiên, quy luật nhân quả. Chúng ta hiểu thấu được những quy luật đó, thì ngay bây giờ cần tự giác học Phật, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, sớm được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Nhưng người thì vẫn chưa đi, chưa hết thời gian thọ mạng, chưa được vãng sinh, mà còn ở lại trần gian, thì chúng ta nhất định phải giữ được tâm trung đạo, luôn luôn cảnh giác, tự phát hiện những niệm khởi bất thiện, thì chúng ta liền niệm Phật, niệm giác, để đè phục nó xuống, không cho nó khởi hiện hành, khởi tác dụng, vì chúng ta biết trong đời sống hiện nay các mặt tiếp súc của chúng ta rất rộng, rất sâu dày, hoàn cảnh xung quanh chúng ta bị ô nhiễm rất trầm trọng, sáu căn chúng ta tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, nhiều cám dỗ, tệ nạn, nghịch cảnh, làm sinh tạo ra sáu thức, rất có hại cho tâm bồ đề. 
 
 
 
Phần II.Tịnh nghiệp tam phước
 
1. Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự tôn kính thầy cô, từ tâm không sát sinh, tu mười thiện nghiệp.
2. Thọ trì tam quy y, cụ túc chúng giới, không phạm oai nghi.
3. Phát bồ đề tâm, tin sâu đạo lý nhân quả, đọc tụng đại thừa, khuyến tấn hành giả. 
1.1 Hiếu dưỡng cha mẹ: 
“Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Chúng ta biết “Công cha như núi thái sơn”, núi thái sơn là ví dụ so sánh tượng trưng, là đơn vị so sánh với công cha. Như vậy, núi thái sơn hiểu một cách rộng ra, đó chính là đại địa cầu, là trái đất này của chúng ta, là hành tinh mà chúng ta đang sinh sống, hoặc đó chính là tất cả mọi thứ trong vũ trụ nhân sinh này, tận hư không khắp các pháp giới, đều là công cha nghĩa mẹ của chúng ta vậy. Công cha được hiểu là sự bảo vệ, hiền hộ, giúp đỡ chúng ta, đều an trú trong công cha nghĩa mẹ. “Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, nước trong nguồn chảy ra là biểu pháp so sánh với nghĩa mẹ nhiều như nước trong nguồn, ở trong đại dương, đại địa này. Nghĩa mẹ bao la rộng khắp mọi nơi, đâu đâu cũng là nghĩa mẹ, tình mẹ yêu thương các con, với một tấm lòng liên tục không gián đoạn, không ngừng nghỉ, như nước trong nguồn chảy ra vừa thanh cao, ấm áp, hiền hoà, yêu thương, giúp đỡ chúng ta có được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững.
Chúng ta biết công cha nghĩa mẹ đối với các con thật là to lớn và sâu dày, nếu muốn kể hết được công cha nghĩa mẹ, thì nói không cùng tận, cũng không nói hết được công đức, tình nghĩa. Cha mẹ đã sinh thành, nuôi dưỡng, bảo vệ liên tục từ lúc chúng ta còn nằm trong bụng mẹ chín tháng mười ngày, được sinh ra đời, được cha mẹ yêu thương, nuôi dưỡng, dạy bảo, gìn giữ quý báu hơn tất cả mọi thứ trên đời, hơn cả tính mạng của cha mẹ. Vì con thơ nhỏ bé, yếu đuối, mỏng manh, như giọt sương ban mai, cha và mẹ chịu đói lạnh, chịu khổ đau, sẵn sàng chịu mọi hy sinh, vất vả, kể cả là phải hy sinh tính mạng, để cho con được sống một cách mạnh khoẻ, ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, bình yên, thì tấm lòng của cha mẹ đã thoả nguyện. Đây chính là tình cảm thiêng liêng, cao quý nhất của cha mẹ dành cho các con, sự mong muốn lớn nhất của cả cuộc đời làm cha mẹ, là muốn các con của mình được mạnh khoẻ, tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, tự tại, bình yên bền vững, có được cuộc sống trí tuệ cao đẳng, sống biết ơn đền ơn, biết khổ nạn cứu khổ nạn, quan tâm, thương sót, giúp đỡ được cho mọi người, cho xã hội, cho quốc gia, dân tộc Việt Nam anh hùng và nhân loại trên toàn thế giới. 
Chúng ta biết công cha nghĩa mẹ thật to lớn, sâu dày, rộng khắp, bao trùm không gian và thời gian, như vậy không thể dùng từ ngữ mà nói hết được công đức, trí tuệ, tình nghĩa của cha mẹ ban tặng cho các con, không điều kiện, không một chút phù đáp, đòi hỏi đền ơn trả nghĩa, tất cả những điều tốt đẹp nhất, mà cha mẹ tự nhiên, tự nguyện, ban tặng cho các con không một chút đòi hỏi ơn huệ. Chính vì điều đó mà chúng ta là thân phận làm con, cần phải biết công cha nghĩa mẹ, biết ơn đền ơn, uống nước nhớ nguồn. 
“Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Đạo làm con thì phải cả đời thờ mẹ kính cha mới tròn chữ hiếu. Tức là khi chúng ta còn nhỏ thì phải biết kính trọng, vâng lời, yêu thương, giúp đỡ cha mẹ và biết tự giác làm các việc cá nhân của mình, là người con ngoan trò giỏi, sống hoà đồng với mọi người, luôn giúp đỡ mọi người thân trong gia đình có được cuộc sống đầy đủ về vật chất, tinh thần và làm các công việc vì cộng đồng xã hội. Chúng ta cần phải tự giác học Phật pháp để hoàn thiện bản thân, giữ gìn được sự đoàn kết hợp tác trong các mối quan hệ công việc xã hội, gia đình được hoà hợp, hạnh phúc, thành đạt. Nhờ hiểu thấu và tu hành các công đức, phát được bồ đề tâm bền vững, được minh tâm kiến tính thành Phật, tự độ và độ tha giúp đỡ Cha mẹ, người thân, mọi người trong xã hội.
Người thật sự hiểu biết trí tuệ cao đẳng, tài giỏi, thành đạt, là người con có hiếu với cha mẹ, còn ngược lại người không có hiếu với cha mẹ là người thiếu hiểu biết, kém trí tuệ, mờ mịt, đần độn, mê si, điên đảo.   
1.2. Phụng sự các thầy cô, người dẫn đạo, thiện tri thức, việc nghe lời dạy bảo những điều hay, điều tốt, kiến thức khoa học kỹ thuật, nhận thức hiểu biết trí tuệ, về mọi mặt đời sống văn hoá xã hội, an ninh chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật của các thầy cô giáo, các bậc thiện tri thức. Cho nên chúng ta phải luôn giữ tâm biết kính trọng, biết ơn đền ơn các thầy cô giáo, và các bậc thượng thiện tri thức, xứng đáng là người con ngoan trò giỏi, “tôn sự trọng đạo”. 
Chúng ta biết cha mẹ sinh thành chúng ta, chăm sóc, nuôi dưỡng, quan tâm, yêu thương chúng ta, ơn nghĩa đó chúng ta phải tận hiếu báo đáp. Nhưng để trở thành người con có hiếu đạo, thì cần phải có người dẫn đạo, là những người thiện tri thức. Vì chúng ta mà làm công tác giáo dục giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, thương sót, truyền đạo, giúp đỡ bình đẳng cho chúng ta có được hiểu biết, nhận thức, ý thức, trình độ chuyên môn khoa học kỹ thuật, văn hoá xã hội, an ninh chính trị, kinh tế, mọi mặt của đời sống sinh hoạt của chúng ta, nhân loại trên toàn thế giới. Cũng như tất cả mọi thứ, thật tướng của vạn sự vật, sự việc hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này và tận hư không khắp các pháp giới, để từ đó chúng ta biết được đâu là phải trái, nhân ngã thị phi, tốt xấu, thật giả, thiện ác, đúng sai, biết được ơn nghĩa của cha mẹ mà báo hiếu đến tận hiếu. Công đức mà thầy cô giáo, cũng như các thiện tri thức dạy bảo chúng ta, cũng như công đức nghĩa tình của cha mẹ đối với con cái, là hoàn toàn bằng nhau, bình đẳng. 
Chúng ta biết Bổn sư Thích Ca Mô Ni Phật là bậc đại triệt đại ngộ, có tâm vô thượng chính đẳng chính giác, Ngài vì chúng ta mà ứng hoá thể hiện tại nhân gian, trụ thế tám mươi năm giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, trong suốt bốn mươi chín năm nói ra 8.400 pháp môn. Để giúp ích, thương sót bình đẳng cho tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Sự thương sót của đức Phật Như Lai đối với chúng ta, cũng như tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, so với công đức tình nghĩa cha mẹ yêu thương đối với con cái, còn sâu đậm hơn rất nhiều lần, không thể tính đếm hết được. Ngài vừa là vị thầy và là người cha lành của tất cả chúng sinh trong sáu cõi luân hồi, ba đường ác, và cả mười pháp giới. Ngài đã vượt qua tất cả mọi trở ngại, biển lửa thiêu đốt để đi đến nhân gian, nhằm mục đích khai thị một thứ nhân duyên duy nhất, đó chính là nói rõ ràng, minh bạch, trong mỗi chúng ta cũng như trong tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, đều có trung một pháp thân, bản thể, Phật tính, trí tuệ Phật. Chư Phật Như Lai căn cứ theo căn cơ của từng chúng sinh, đã lập ra ba thừa pháp, là thanh văn thừa, duyên giác thừa, bồ tát thừa và 8.400 pháp môn, ba đại tạng kinh và mười hai giáo để giáo hoá, phổ độ, truyền đạo, giới thiệu Phật pháp cho tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, được bình đẳng phá mê khai trí tuệ, lìa khổ được an vui, được giải thoát khỏi sinh tử luôn hồi, tu hành các công đức, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật.
Chúng ta biết nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng, có truyền thống hiếu học tôn sư trọng đạo, chúng ta là thân phận học trò, thì luôn luôn phải giữ được tâm lễ kính đối với các thầy cô giáo, các thiện tri thức, đã có công giáo dục chúng ta thành người tốt, thành đạt hoàn thiện mọi mặt, có được sự hiểu biết xã hội loài người, hiểu biết được mọi sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này. Chúng ta biết nếu chúng ta có một phần lễ kính đối với thầy cô giáo, các thiện tri thức, thì chúng ta có được một phần lợi ích trí tuệ, công đức và chúng ta có được mười phần lễ kính đối với thầy cô giáo, các thiện tri thức, thì chúng ta được mười phần lợi ích trí tuệ, công đức. Đạo lý là “tiên học lễ, hậu học văn”, chúng ta lễ kính thầy cô giáo và các thiện tri thức, thì tất cả những điều tốt đẹp, chân chính, đúng đắn, bổ ích, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, mà các thầy cô giáo và các thiện tri thức dạy bảo, giáo dục, truyền đạo, giới thiệu cho chúng ta, thì chúng ta nhất định được tiếp thu, học tập, nghe lời và làm theo những điều dạy bảo đó. Để chân thật có được lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng viên mãn, có được hưởng cuộc sống vui vẻ, tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. Còn nếu ngược lại chúng ta không tôn sư trọng đạo, lễ kính các thầy cô giáo và các thiện tri thức, thì những điều mà họ dạy bảo chúng ta, chúng ta không nghe, không làm theo, thì làm sao mà có thành quả lợi ích trí tuệ, công đức. 
Người thầy cô giáo nào và các thiện tri thức nào, mà chúng ta tôn trọng, lễ kính nhất, thì đó chính là người thầy cô giáo, thiện tri thức tốt nhất của chúng ta. Chúng ta đến học tập với họ, thì nhất định sẽ thành công, đạt được kết quả tốt đẹp viên mãn nhất. Như vậy, chúng ta nhất định phải luôn giữ gìn tâm “tôn sư trọng đạo”, “tôn trọng thầy, mới được làm thầy”, là đạo lý làm người tốt nhất. Chúng ta đi đâu để tìm thầy cô giáo và các thiện tri thức để học tập, lĩnh hội, khế thừa được tri thức hiểu biết trí tuệ, công đức đây. Chúng ta đã biết người thầy nào mà chúng ta lễ kính nhất, thì đó chính là người thầy tốt nhất của chúng ta, đến học tập với họ nhất định được thành quả tốt đẹp như mong muốn. Nhưng nói cách khác, mở rộng ra thì tất cả những người trong xã hội đều là thầy cô giáo, thiện tri thức của chúng ta. Vì trong cuộc sống hằng ngày chúng ta trong quan hệ đối nhân sử thế tiết vật, tiếp sự việc, hiện tượng, chúng ta gặp được người tốt, người tài giỏi, hiểu biết thông minh trí tuệ thành đạt, thì chúng ta học tập được những điều tốt đẹp, sở trường của họ. Khi chúng ta gặp phải người không tốt, có nhiều tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, thì chúng ta rút kinh nghiệm từ họ, để sửa chữa chính bản thân mình được hoàn thiện hơn, tương ứng với chân như bổn tính. Như vậy thì mọi người trên thế giới này đều là thầy cô giáo, các thiện tri thức của chúng ta. Chúng ta phải luôn giữ tâm tôn trọng, lễ kính đối với mọi người, mọi chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, chúng ta làm được như vậy, mới chân thật là người có hiểu biết trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báu. 
Chúng ta biết xã hội hiện đại ngày nay, có các mặt tiếp xúc của chúng ta với hoàn cảnh bị ô nhiễm, với sự bùng nổ thông tin truyền hình vệ tinh, viễn thông, hệ thống mạng internet kết nối toàn cầu. Nó đã làm cho cuộc sống của chúng ta bị tác động, bị ảnh hưởng, cả hai mặt trái phải, đúng sai, tốt xấu, thuận nghịch lẫn lộn, rất là mạnh mẽ, làm nảy sinh rất nhiều vẫn đề tốt xấu, thật giả, đúng sai, phải trái, thiện ác, mâu thuẫn lẫn lộn, làm cho chúng ta không thể sử lý, quản lý, điều hành, kiểm soát hết được, khiến cho con cái của chúng ta thì không nghe lời dậy bảo của cha mẹ, ở trường học thì không lễ kính các thầy cô giáo, không chăm chỉ nỗ lực học tập, khi lớn lên đi làm công tác trong các cơ quan doanh nghiệp, thì không nghe lời giám đốc, dẫn đến biểu tình đình công, đòi quyền lợi ưu đãi, không biết chịu đựng, chia sẻ sự khó khăn gian khổ với đồng nghiệp, lãnh đạo cơ quan doanh nghiệp. Tất cả những thứ đó là do lỗi của bậc làm cha mẹ, thầy cô giáo, giám đốc không làm đồng thời được cả ba điều kiện đó, chúng ta vừa làm cha mẹ, vừa làm thầy cô giáo và giám đốc của con cái, một cách hiệu quả tốt nhất. Tức là chúng ta ở bất cứ một cương vị nào thì chúng ta cũng phải làm tốt đồng thời ba trách nhiệm trên, thì con cái của chúng ta liền biết vâng lời cha mẹ, kính trọng thầy cô giáo, nghe lời chỉ đạo của giám đốc, xứng đáng là người con ngoan, trò giỏi, công nhân tốt, sống có ích cho xã hội, cho nhân loại trên toàn thế giới. 
Chúng ta biết làm như thế nào để đạt được xã hội công bằng, phát triển ổn định, chỉ có cách là cho dù chúng ta ở bất cứ địa vị, ngành nghề nào, trong xã hội, thì chúng ta cũng làm tròn tránh nhiệm trên cương vị đó, đạt đến hiệu quả tốt nhất, đem lại lợi ích cho mọi người xã hội nhiều nhất, thì đó được xem là xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, sự nghiệp cá nhân thì thành đạt, gia đình hạnh phúc, quốc gia giầu mạnh, phồn vinh, thế giới hoà bình, tập trung dân chủ, đoàn kết thống nhất, hợp tác phát triển bình đẳng bền vững cùng có lợi.
Chúng ta biết việc “tôn sư trọng đạo”, là việc có được lợi ích trí tuệ, công đức vô cùng tốt đẹp, chính vì thế mà chúng ta trong cuộc sống hằng ngày, cần luôn giữ gìn tâm chân thành, tự giác học tập, lễ kính đối với các thầy cô giáo, các thiện tri thức, vì chỉ có như vậy mới mang lại lợi ích hiểu biết trí tuệ, công đức chân thật nhất cho chúng ta. Tuy nhiên trong thực tế xã hội ngày nay, thì cũng còn có nhiều điều mâu thuẫn, bất cập, người làm thầy cô giáo chưa thật sự gương mẫu, chưa làm được tròn trách nhiệm, nghĩa vụ của mình. Như việc chúng ta làm thầy cô giáo, thì cũng phải yêu thương, giúp đỡ học sinh như những người cha mẹ đối với con cái và là người có khă năng, trình độ sư phạm, giáo dục hiểu biết trí tuệ cao đẳng, hiểu thấu được tâm tư, nguyện vọng, trình độ hiểu biết của học sinh. Để mà chỉ đạo, thuyết phục chúng học tập làm theo, để có được lợi ích hiệu quả công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng. 
Nhưng cho dù các thầy cô giáo chưa đạt được yêu cầu như mong muốn, chưa thoả mãn được yêu cầu về trình độ, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, kiến thức văn hoá giáo dục, nhưng những kiến thức, giáo trình giảng dậy, tất cả mọi mặt đời sống để hướng dẫn, giới thiệu, dậy bảo cho chúng ta của các thầy cô giáo, các thiện tri thức là hoàn toàn đúng với quy định của Nhà nước. 
1.3. Tâm từ bi không sát sinh, bao gồm tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, giác ngộ hiểu biết trí tuệ, từ bi bác ái, bao dung độ lượng đối với tất cả các sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này. Chúng ta biết cha mẹ của chúng ta và tổ tiên ông bà nhiều đời, nhiều kiếp và con cháu hậu thế của chúng ta, tất cả đều là thể hiện con người trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Nói cách khác suy rộng ra thì tất cả con người, nhân loại trên toàn thế giới, cũng như tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, đều là ông bà, cha mẹ, con cái, người thân trong gia đình của chúng ta hiện nay. Đức Phật Như Lai nói tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, đều có đức tướng của Phật và đức tính Như Lai, và đều thành Phật Như Lai trong tương lai. Chính vì điều đó mà chúng ta không được sát sinh, sát hại bất cứ chúng sinh nào trong vũ trụ nhân sinh này, cũng như chúng sinh ở tận hư không khắp các pháp giới. Chúng ta không được sát sinh, không được làm cho chúng vì chúng ta mà sinh phiền não, đau khổ, mà chúng ta cần phát tâm từ bi giúp đỡ, thương sót mọi người, nhân loại trên thế giới, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật.
 “Nhà Phật lấy từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa”, có nghĩa là Phật pháp lấy việc tu tâm từ bi hỷ xả là cội gốc, là nền tảng cơ bản bền vững, giống như tu tam học “Giới Định Huệ”, trước tiên chúng ta phải tu trì giới luật, là giữ trọn năm giới, mười thiện và các giới luật khác. Từ việc tu trì giữ gìn giới luật tinh nghiêm, thì sinh định tâm kiên cố, vững bền, không thay đổi bởi ngoại cảnh, thì từ đó sinh ra hiểu biết trí tuệ cao đẳng, biết được chân tướng sự thật của tất cả các pháp, các tướng trong vũ trụ nhân sinh này, chân thật là những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, hoặc là không. Như vậy, chúng ta hiểu được chân tướng sự thật là tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, đều là tổ tiên, ông bà, cha mẹ của chúng ta, do tạo nhân duyên thiện ác lẫn lộn, nên có nghiệp báo, quả báo luân hồi trong sáu cõi, ba đường ác. Chính vì vậy mà chúng ta nên tu “Giới Định Huệ”, tu năm giới, mười thiện, trong đó có giới không sát sinh và cũng không làm cho chúng sinh vì ta, mà đau khổ, phiền não. Vì tất cả chúng sinh đều có Phật tính và đều là chư Phật trong tương lai. 
Cách tốt nhất là chúng ta nên tu ăn trường chay đến hơn thở cuối cùng, không chỉ là nuôi dưỡng cơ thể có được sức khoẻ tốt lành, mà còn nuôi dưỡng và tăng trưởng nhân duyên chính thiện, tâm từ bi bác ái, bao dung độ lượng, tâm đại từ đai bi, tâm bồ đề bền vững, sớm được minh tâm kiến tính thành Phật. 
1.4. Năm giới và mười thiện nghiệp, năm giới cấm là sát sinh, trộn cướp, tà dâm, nói dối, uống rượu, mười thiện nghiệp là không sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói bóng bẩy, nói hai chiều, nói tà ác, tham, sân, si.
Tâm không sát sinh, đây là giới luật đầu tiên trong mười thiện nghiệp, nếu chúng ta vi phạm giới sát sinh là tính tội, tội này rất nặng, trọng tội, quả báo ở trong ba đường ác. Chính vì thế, chúng ta không nên sát sinh, mà còn phải giúp đỡ, thương sót mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, được hiểu thấu Phật pháp, và buông bỏ những giả tướng, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Ngày nay chúng ta thấy trong xã hội xẩy ra những việc sát sinh, sát hại, ăn thịt chúng sinh, động vật rất nhiều, điều đó làm cho chúng sinh bị đau khổ, phiền não, oán trách. Tất cả những điều đó đều là do vô minh, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, được huân tập tích tụ từ nhiều đời, từ vô thỉ kiếp đến nay, làm cho chúng ta bị vô minh che lấp, không hiểu được chân tướng sự thật của tất cả mọi thứ trong vũ trụ nhân sinh này. Chính vì chúng ta không hiểu được trí tuệ Phật cho nên mới làm ra những sự vật, sự việc, hiện tượng, không đúng với đạo lý, phương pháp, cảnh giới pháp giới mà đức Phật Như Lai thuyết giáo, truyền đạo, giới thiệu Phật pháp giúp ích cho chúng ta có được cuộc sống hiểu biết trí tuệ cao đẳng, được hưởng mọi sự an vui, ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên, và công đức, phước báu vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn. 
Đức Phật Như Lai nói, tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, mười pháp giới, sáu cõi luân hồi ba đường ác, đều có Phật tính, cùng có trung một pháp thân, và trong tương lai tất cả chúng sinh đều được bình đẳng thành chư Phật Như Lai. Chúng ta không biết được chân tướng sự thật đó, cho nên đã tạo tội nghiệp cực trọng, tạo nhân duyên quả báo luân hồi trong sáu cõi, ba đường ác, từ vô thỉ kiếp đến nay, vẫn chưa tìm được con đường Bát chính đạo, để giải thoát khỏi sinh tử luân hồi trong sáu cõi ba đường ác. Chúng ta đã phải chịu mọi khổ đau cùng cực, như lửa lớn thiêu đốt thân người vậy. Khi chúng ta học Phật tu pháp hiểu thấu được chân tướng sự thật, thì nhất định chúng ta không được ăn thịt chúng sinh, cũng như không để tất cả chúng sinh vì chúng ta mà khổ đau, phiền não, oán trách. 
Chúng ta, bao gồm bốn chúng đệ tử Phật tại gia, xuất gia và tất cả nhân loại trên thế giới, cũng như chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới. Chúng ta hiểu thấu được Phật pháp, hiểu thấu được chân tướng sự thật của tất cả sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, thì nhất định tu ăn trường chay, ăn trai tịnh và phát tâm bình đẳng, giúp đỡ, thương sót, cứu khổ cứu nạn cho tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, được hiểu thấu Phật pháp và buông bỏ những giả tướng, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Không trộm cắp là việc chúng ta chấp hành đúng pháp luật của nhà nước, giới luật trong Phật giáo. Trộm cắp là tính tội, tội này rất nặng, trọng tội, đó là những hành vi tạo tác việc làm bất thiện, bất chính và các hành vi, tạo tác như thân, khẩu, ý nghiệp, vi phạm pháp luật, tệ nạn xã hội, cờ bạc, số đề, cá độ, làm ăn bất chính trái pháp luật, trái nguyên tắc, sai phương pháp, trái với đạo lý luân thường, thuần phong mỹ tục, phong tục tập quán. Để chiếm đoạt vật chất, tài sản, tài bảo, đồ vật, thông tin, tài liệu, hữu hình hay vô hình và chiếm đoạt tinh thần, phẩm chất đạo đức, đời sống, sự ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên của người khác, xã hội, quốc gia, toàn thể nhân loại trên thế giới. Sự phá hoại làm hư hỏng tất cả những thứ trên, dưới mọi hình thức trực tiếp, gián tiếp, lỗi do vô ý hay cố ý, để mang lại lợi ích cho bất kỳ ai, cá nhân hay tổ chức, đảng phái, tôn giáo, quốc gia, dân tộc nào trên toàn thế giới, hoặc thoả mãn bản thân mình, thì đều là vi phạm vào giới luật trộm cắp, cướp đoạt. 
Khi chúng ta đều hiểu biết rõ thân, khẩu, ý nghiệp, của chúng ta là một, là đồng nhất, cho nên các hành vi, tạo tác của chúng ta khi làm bất cứ một việc gì đó, cũng phải suy nghĩ trước sau, cân nhắc cẩn thận, bình tĩnh, sáng suốt, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, mới thể hiện qua lời nói, hành vi việc làm. Do đó tuy chúng ta chưa thực hiện hành vi tạo tác trộm cắp, cướp đoạt, mà chỉ là trong suy nghĩ, lời nói, hoặc là hành vi tạo tác của chúng ta chưa thực hiện được, việc trộm cắp, cướp đoạt, thì chúng ta cũng đã được xem là vi phạm vào giới trộm cắp, cướp đoạt. Hành vi này là tính tội, là trọng tội, tội này rất nặng, đây là chúng ta vi phạm tâm trộm cắp, cướp đoạt, quyết đoạ lạc vào ba đường ác, thật đáng thương xót vô cùng. 
Sự việc trộm cắp, cướp đoạt, là những hành vi, tạo tác của thân, khẩu, ý nghiệp, nhằm mục đính chiếm lợi về mình, tức là hành vi tạo tác hại người để lợi cho mình, nhưng thực ra thì không phải thế mà là hại người, chính là hại mình, hại chúng sinh tức là hại chư Phật tương lai, cái lợi mà do trộm cắp, cướp đoạt được, chỉ là rất nhỏ trước mắt chúng ta, nhưng quả báo về sau chúng ta phải chịu, thì vô cùng ác liệt, đau khổ, phiền não cùng cực. Chúng ta không được vi phạm giới luật và không có tâm trộm cắp, cướp đoạt, mà còn phải tự giác học Phật tu pháp, phát được bồ đề tâm bền vững, được minh tâm kiến tính thành Phật. Chúng ta biết sự việc vi phạm đó, là tội lỗi, thì không bao giờ đem lại những lợi ích trí tuệ, công đức, phước đức cho chúng ta, mà chúng ta vi phạm luật càng nhiều, thời gian mức độ càng lớn, thì tội lỗi ấy, càng ngày, càng nặng, trọng tội, quyết định đoạ lạc vào ba đường ác, chịu nhiều khổ đau, cùng cực, thật đáng thương xót vô cùng. Khi chúng ta làm tất cả các việc đúng theo pháp luật, giới luật trong Phật giáo, thì đó chính là đem lại cho chúng ta rất nhiều lợi ích trí tuệ hiểu biết, công đức, phước báu, vô lượng vô biên. Chúng ta càng làm nhiều việc tốt, việc chính thiện, mức độ thời gian hiệu quả càng nhiều, càng tăng trưởng lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, bình yên bền vững. Đây là đạo lý đã là vi phạm tội lỗi, thì không có lợi ích công đức, phước báu, trí tuệ, còn đã là việc đúng với đạo lý, đúng với chính nghĩa, chính pháp trong Phật pháp, thì nhất định được tăng trưởng lợi ích trí tuệ, công đức, phước báu, vô lượng vô biên.  
Không tà dâm, là chúng ta không nên có tâm tà dâm, vì tà dâm đây là tính tội, trọng tội rất nặng, tà dâm là tâm tham cầu dục vọng để thoả mãn, hưởng thụ cảm giác khoái lạc nhất thời, tạm thời của thân xác cơ thể chúng ta, nó chỉ là những cảm giác giả tạm, ảo tưởng. Tâm tà dâm, tham dục vọng thoả mãn sinh lý, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, của con người không phải là tình yêu đôi lứa tốt đẹp chân tình. Tình yêu chân tình là sự ban tặng tự nhiên, không điều kiện, cho người mà mình yêu quý nhất, những tình cảm, của cải, vật chất, và tinh thần tốt đẹp nhất, cũng như sự hy sinh tất cả vì mục đích yêu thương, giúp đỡ người yêu có được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên, hiểu biết trí tuệ cao đẳng. Nhưng tình yêu chân tình tốt đẹp của đôi lứa, cần phải có từ hai phía, hai bên hiểu biết về nhau và sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ, tôn trọng, lễ phép lẫn nhau, vượt qua tất cả khó khăn, trở ngại, mọi hoàn cảnh thuận nghịch của cuộc sống hằng ngày. Chúng ta xây dựng và gìn giữ hạnh phúc, gia đình tốt đẹp, được như thế, thì điều đó cũng chính là đang xây dựng, bảo vệ, phát triển, vì một xã hội an định phồn vinh, quốc gia giầu mạnh, thế giới hoà bình, tập trung dân chủ, đoàn kết thống nhất, hợp tác, phát triển mọi mặt, toàn diện, bình đẳng cùng có lợi. 
Gia đình bất hoà hay hạnh phúc có ảnh hưởng rất lớn đến việc xây dựng, bảo vệ và phát triển một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, quốc gia giầu mạnh, thế giới hoà bình, đoàn kết thống nhất, hợp tác, phát triển bình đẳng cùng có lợi. Gia đình bất hoà, do nguyên nhân chủ yếu là sự cố chấp, không có tấm lòng bao dung độ lượng, không nhìn vào những điều tốt đẹp của con người, mà sống một cách bình yên, mà cứ nhìn vào cái tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác của con người vốn có, để từ đó sinh ra sự cố chấp, những mâu thuẫn bất hoà, dẫn đến sự tan vỡ, đây là do sự thiếu hiểu biết gây ra, thật đáng thương xót vô cùng. 
Như vậy cho dù với bất kỳ lý do nào, như tâm tà dâm, tâm xấu tà ác, mà dẫn đến việc mâu thuẫn, bất hoà, sự tan vỡ, ly dị, thì đều là tính tội, tội này rất nặng, là trọng tội. Khi vợ chồng bất hoà, gia đình tan vỡ, làm cho những đứa con trẻ tội nghiệp, chúng sẽ có tâm hận thù oán tránh. Những đứa trẻ, thiếu sự giáo dục, yêu thương, giúp đỡ của cha mẹ, dễ bị thua thiệt trước hoàn cảnh khó khăn, ô nhiễm, cám dỗ dẫn đến vấp ngã, vi phạm các tệ nạn xã hội, làm hại người rồi hại chính bản thân mình, thật là đáng thương xót vô cùng. Tình yêu chân tình đôi lứa, là sự chân thành, hiểu biết lẫn nhau từ hai phía. 
Chúng ta trong cuộc sống đời thường có quan hệ vợ chồng, cha con, thầy bạn, ở cơ quan doanh nghiệp có quan hệ đồng nghiệp cộng sự, giám đốc với công nhân, đối với quốc gia có quan hệ công dân, hộ khẩu, nhân khẩu, trong đại chúng, chúng ta là bốn chúng đệ tử Phật, ở trong các ngôi chùa, trong đạo tràng hoặc ở trong các tổ chức xã hội, có công việc khác nhau, cùng nhau phát tâm tự giác học Phật tu pháp, thì phải tuân theo sáu phép hoà kính. Tất cả các quan hệ trên, chúng ta ở bất cứ một địa vị nào, một tổ chức nào, một vị trí nào trong gia đình, xã hội, quốc gia, dân tộc, đều phải làm tròn trách nhiệm công việc, mối quan hệ của mình với các địa vị đó, làm tròn bổn phận giữ đúng giới luật. Ví như ở trong một gia đình chúng ta là cha mẹ, thì phải hết lòng dạy bảo con cháu như người thầy, nuôi dưỡng như người cha mẹ, và tổ chức cuộc sống cho chúng, quản lý lãnh đạo chúng, như giám đốc với công nhân. Như vậy, chúng ta mới làm tròn trách nhiệm bổn phận của người cha, người mẹ trong gia đình. 
Chúng ta không tà dâm, tức là trong cuộc sống hàng ngày bạn phải giữ đúng quy định của luật pháp Nhà nước, giới luật trong Phật pháp, không được đảo lộn trật tự của các mối quan hệ đó. Bạn đã có hôn nhân gia đình, pháp luật công nhận mối quan hệ đó, và bảo vệ bạn theo đúng luật pháp quy định. Pháp luật quy định bạn chỉ được một vợ, một chồng trong vòng lễ giáo và pháp luật, nếu bạn vi phạm quan hệ tình dục với người khác, thì đó là quan hệ bất chính, đó là tà dâm. Giới luật trong Phật pháp tội này là tính tội, trọng tội, tội rất nặng quyết đọa lạc vào ba đường ác chịu nhiều khổ đau, phiền não, thật đáng thương xót vô cùng. 
Chúng ta học Phật tu pháp, hiểu thấu chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, với mình chính là một, vì là đồng thể, đều có Phật tính, pháp tính, đều là chư Phật vị lai. Chính vì vậy bất cứ việc quan hệ tình dục nào, đều là vi phạm giới luật trong Phật pháp. Chính vì điều đó chúng ta phải nghiêm trì giới luật, không được tà dâm, không được mê muội, tham đắm vào vẫn đề quan hệ tình dục, vì nó có hại cho sức khoẻ, thể chất tinh thần của chính chúng ta. Phật pháp quy định giới luật, không được tà dâm, tức là không những hành vi, việc làm, hành động, vi phạm giới tà dâm, mà tất cả các tạo tác, tổ chức liên quan đến tà dâm, và thân, khẩu, ý nghiệp, của chúng ta cũng không được tà dâm. Khi bạn đã đang có gia đình, vợ chồng, bạn phát tâm tin ưa Phật pháp, học Phật tu pháp thì cũng phải nghiêm trì giới luật, quan hệ tình dục vợ chồng tuy được pháp luật cho phép. Việc duy trì nòi giống tiếp nối tổ tiên, phong tục tập quán, nhưng việc quan hệ tình dục đó, cũng cần phải có lễ kính, chừng mực, tôn trọng bình đẳng, không được tham đắm quá mức, tham đắm là có tội. 
Không nói dối, là lời nói chân thành, thật thà có lợi cho mọi người, nhân loại trên toàn thế giới, nói dối là lời nói xấu tà ác, là tính tội, tội này rất nặng. Chúng ta học Phật tu pháp là để mong cầu có được lợi ích trí tuệ, công đức, thành tựu chân thật, nhưng tất cả mọi sự mong cầu phải đúng theo đạo lý, chính pháp trong Phật giáo, thì đương nhiên bạn sẽ thành công, sẽ có được thành quả chân thật, đây cũng chính là quy luật nhân quả, “nhân duyên quả báo chân thực bất hư không sót mẩy trần”. Chúng ta học Phật tu pháp, y giáo phụng hành, tức là những lời đức Phật dạy bảo chúng ta, từng câu, từng chữ, từng đạo lý, phương pháp, cảnh giới trong kinh giáo, chúng ta đều hiểu thấu và lý giải hành chứng được, thì đó là nhân của quả Phật cứu cánh viên mãn, chúc mừng bạn đã có tín giải hành chứng, đắc đạo quả vị viên mãn. Nhưng bạn chưa hiểu thấu được tất cả các pháp Phật dạy bảo, và cũng chưa lý giải hành chứng được, tức là bạn chưa đắc đạo, mà nói là đã đắc đạo, để nói dối, lừa gạt mọi người, chúng sinh, thì đây là đại vọng ngữ, đại nói dối, tội rất nặng, trọng tội quyết đọa A tỳ, địa ngục. Không những bạn nói dối, để lừa gạt chúng sinh, mà tất cả các tạo tác, việc làm, suy nghĩ của bạn dối lừa, làm chúng sinh nhìn vào hiểu lầm, hiểu sai đi chân tướng của sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, thì cũng được xem là bạn tạo tội nói dối, để lừa gạt chúng sinh, làm cho chúng sinh khổ đau, phiền não, hoặc mất lòng tin ưa của chúng sinh đối với chính pháp trong Phật giáo. 
Chúng ta hiểu thấu và làm được việc không nói dối người, không nói dối mình, tự giác học Phật tu pháp “tin sâu không nghi”, tin vào chính khả năng của mình, tin vào quy luật nhân quả, tin vào tất cả lời giáo huấn, dạy bảo của chư Phật Như Lai, tất cả những điều đó bạn đều làm được, thì bạn đúng là người chân thật. Nhưng bạn phải có hiểu biết trí tuệ cao đẳng, biết phân biệt đâu là việc nên làm, nên nói thật, để có được lợi ích cho mọi người, chúng sinh, thì bạn nhất định làm, nhất định nói giúp, còn việc làm, lời nói, mà có hại cho mọi người, chúng sinh, thì nhất định chúng ta không làm, không nói, phải ngăn cản họ. Những việc làm có lợi ích cho mọi người, dù cho bản thân mình có bị thua thiệt, buộc phải nói dối thì cũng làm, cũng nói mà không hối hận, vì đó là việc tốt, xả thân vì người khác, vì tất cả chúng sinh mà cứu giúp, việc đó được xem là khai đạo, truyền đạo, khuyến đạo, giới thiệu Phật pháp hoằng pháp lợi sinh. 
Trong thực tế đời sống của chúng ta, người sống có tâm chân thành, thật thà, thành thật, trung thực, hiền hoà, khiêm tốn, giản dị, tiết kiệm, thì thường được ánh sáng quang minh của chư Phật Như Lai chiếu vào, con người này liền được hưởng sự ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. Khi gặp được giáo lý của Phật pháp nhất định tin ưa, tự giác học Phật tu pháp. Khi bạn có đầy đủ nhân duyên, thiện căn, phước đức, công đức chín muồi, vừa gặp được Phật pháp đại thừa, nhất là gặp được pháp môn Tịnh Độ tông, với sự hỗ trợ của năm bộ kinh, một luận, nhất định liền được lợi ích trí tuệ, công đức, đơm hoa kết quả, tự giác học Phật tu pháp viên thành Phật đạo. Người có tâm chân thành, thật thà, thành thật, trung thực, chân thật, hiền hoà, khiêm tốn, giản dị, tiết kiệm, thanh tịnh thời nay là rất cao quý, đây cũng xem như là được đại công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng. Phật nói chúng ta gặp được Phật pháp như người nghèo gặp của báu, rất may mắn.
Chúng ta cần hiểu một cách sâu rộng hơn, việc nói dối lừa gạt mọi người, chúng sinh, nói không thành có, nói có thành không, nói không đúng sự thật, nói sai lệnh thông tin, nói ba hoa khoác lác khiến cho chúng sinh hiểu lầm. Từ đó sinh ra khổ đau, phiền não, nóng giận, oán trách, không phân biệt được đâu là chính thiện pháp, đâu là xấu tà ác pháp. Chúng ta trong hoạt động hằng ngày có các tạo tác thân, khẩu, ý nghiệp của chúng ta, không đúng đắn, mà làm ra những tạo tác, thủ đoạn lừa gạt mọi người, khiến cho mọi người bị mất tài sản, của cải, vật chất, tinh thần, tài, sắc, danh, thực, thuỳ, và mất danh dự, để đem lại lợi ích cho mình, thì đều là vi phạm vào giới luật nói dối, tội này rất nặng, trọng tội. Nói dối làm cho mọi người sấu hổ, mất danh dự, khổ đau, phiền não, oán hận, sự nghiệp cá nhân tan vỡ, tinh thần điên loạn, gia đình phân ly, xã hội bất an, quốc gia thì nghèo đói lạc hậu, thế giới bất ổn, nói dối là tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, chúng ta cần phải buông bỏ, tránh xa, không được vi phạm giới luật nói dối, mà phải nói chân thật, bình đẳng, đúng đạo lý, phương pháp chính pháp trong Phật giáo.
Chúng ta tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, để có đầy đủ khẳ năng, trí tuệ cao đẳng, để tự biết hiền hộ chính mình, để phân biệt được những thông tin sai lệnh, cám dỗ, cạm bẫy, tệ nạn xã hội, chánh được sự mê hoặc, điên đảo, giữ gìn được tâm thanh tịnh của chính mình, cho dù cảnh vật thuận nghịch bên ngoài có tác động đến chúng ta, nhưng chúng ta cũng không động tâm, vì tất cả các tướng đều là huyễn, đều là giả tạm hoặc là không, tâm “một niệm không sinh” tâm như như bất động, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật.
Không uống rượu bia, là chúng ta không uống rượu bia và tất cả những chất kích thích, mà làm cho tâm trí của chúng ta mê muội, say mê, mất kiểm soát, điên đảo hỗn loạn, mất tự trọng, không biết sấu hổ, hổ thẹn, đánh mất chính bản thân mình, làm ra các việc hồ đồ, hại người hại mình, thiếu suy nghĩ, không tỉnh táo, không đắn đo, không biết trước được hậu quả, ác giả ác báo, vô cùng nghiêm trọng. Tức là bị những chất kích thích làm cho tâm chí thần kinh của chúng ta bị mê muội, rối loạn, mất kiểm soát, nó chỉ đạo chúng ta làm các việc sai trái, vi phạm giới luật, vi phạm pháp luật, gây ra những tội lỗi, nghiệp chướng xấu tà ác vô cùng ác liệt, hậu quả thật đáng tiếc, đáng thương tâm cho gia đình, xã hội, quốc gia, dân tộc và toàn thể nhân loại trên thế giới.  
Chúng ta học Phật tu pháp, hiểu thấu việc uống rượu bia không phải là tính tội, mà là giá tội, phòng phạm, nhưng chư Phật Như Lai lại liệt nó vào năm trọng tội, vì khi bạn uống rượu bia và các chất kích thích khác vào người, thì bạn bị say mê, mê muộn, điên đảo, hỗn loạn, không kiểm soát các hành vi, tạo tác của thân, khẩu, ý nghiệp, tạo tội nghiệp cực trọng, như vi phạm pháp luật, giới luật trong Phật giáo thì thật tội nghiệp, đáng thương tiếc vô cùng. Chúng ta không được vi phạm giới luật uống rượu bia, mà còn không được sử dụng tất các chất kích thích quá nhiều, cũng như việc sản xuất chế tạo, lưu giữ, lưu thông làm hại mọi người, cũng như làm hại đến cơ thể, tâm trí tinh thần của chúng ta. 
Tóm lại trên đây là năm giới luật cơ bản, quan trọng nhất trong Phật giáo, chúng ta không được vi phạm, đây là năm tội cực trọng. Chúng ta quyết tâm nhất định không được vi phạm những giới luật đó, mà còn phải dẫn đạo, truyền đạo, khuyến đạo, giới thiệu Phật pháp, giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, nói thấu triệt cho tất cả chúng sinh biết rõ và hiểu thấu về năm giới trong Phật pháp, quy định rõ ràng cụ thể và những quy định của pháp luật Nhà nước. Chúng ta luôn giữ gìn thọ trì giới luật tinh nghiêm và làm tấm gương tốt nhất cho đại chúng học tập, noi theo, từ đó tin ưa Phật pháp, tự giác học Phật tu pháp, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật.
Không nói bóng bẩy, là không nói lời rất trau chuốt, thêu dệt, đẹp đẽ, hoa mỹ, nói không đúng sự thật, không đúng nguyên tắc, đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới, nói không đúng với chân tướng sự thật của tất cả sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này. Nhưng lại làm cho người nghe thấy êm tai, thấy cũng có lý lẽ thế gian, làm mê hoặc lòng người, làm cho tâm trí rối loạn, không biết đâu là thật giả, đúng sai, phải trái, tốt xấu, thiện ác lẫn lộn, đảo điên, khiến cho người nghe lo lắng, mâu thuẫn, phiền não, bất an. Từ đó mà làm ra những việc tội lỗi, xấu tà ác. Tội nói lời bóng bẩy, là tính tội, là trọng tội, tội này rất nặng, chúng ta trong cuộc sống hằng ngày cần phải thận trọng, cảnh giác, thức tỉnh, để tìm cho mình hướng đi đúng đắn, đúng với đạo lý, phương pháp, cảnh giới của chính pháp Phật pháp. Chúng ta nên nói lời hiền hoà, đúng chuẩn mực, lễ kính, bình đẳng đối với mọi người, chúng sinh tận hư không các pháp giới.
Không nói lời hai chiều, tức là không nói lời chia rẽ, gây mâu thuẫn, bất hoà, mất đoàn kết giữa con người với con người, giữa con người với tất cả chúng sinh, cũng như đối với các sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này. Nhằm mục đích cầu lợi cho mình, hoặc phá hoại việc tốt đẹp của người khác, và có hại cho chúng sinh. Đây là người có tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, mà sử dụng mọi thủ đoạn, không có lòng tự trọng, nhân cách, mà làm ra các việc như đến người này thì nói xấu người kia, đến cho người kia thì nói xấu người này, xúi dục nhân dân, nhân loại, chúng sinh tranh đấu bất hoà, mâu thuẫn, hận thù oán tránh, hiểu lầm lẫn nhau. Đó là nguyên nhân sinh ra sung đột, chiến tranh tàn phá nhân loại thế giới, tàn phá môi trường sinh thái, vũ trụ nhân sinh này, vì muốn thoả mã cá nhân, mà gây ra tội lỗi, thì tội nay rất nặng, trọng tội nhất định gặp quả báo đoạ lạc xuống a tỳ, địa ngục, thật đáng thương xót vô cùng. Chúng ta trong cuộc sống hằng ngày, nên giữ gìn tâm từ bi bác ái, bao dung độ lượng, tâm biết ơn đền ơn và nói lời hoà hợp, chân thành, đúng đạo lý, phương pháp, đúng chân tướng sự thật, nhằm mục đích mang lại lợi ích trí tuệ, công đức, phước báu cho mọi người, mọi chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới. 
Không nói lời xấu tà ác, là không nói lời to tiếng quát nạt hăm doạ, nói những điều khiến người khác khó chịu, phiền não, lo lắng, buồn chán, thất vọng, chửi mắng thô ác, hách dịch, coi thường mọi người, oán niệm chù rủa. Khiến cho người nghe, người bị chửi mắng, sinh tâm hận thù oán trách, sân hận nổi nóng, khó chịu bức bách, đến một giới hạn chịu đựng sẽ bất chấp tất cả đứng lên đấu tranh, đánh nhau, chiến tranh, gây ra nhiều tội lỗi ác liệt không thể kiểm soát được. Như vậy, chúng ta biết lời nói xấu tà ác không những không có lợi cho mọi người, mà không có lợi cho chính bản thân người nói, vì thế chúng ta nên sửa chữa, thay đổi, tự làm mới nó, để có được những lời nói chân thành, hiền hoà, bình đẳng, luôn mang lại sự vui vẻ, thoải mái, tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên cho mọi người. 
Không tham là việc chúng ta đều hiểu biết tất cả sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, đều là do tâm tưởng sinh, tất cả những gì có tướng hiện hữu đều là hư vọng, hư không, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, không có thật, và đều do tâm phân biệt, vọng tưởng, chấp trước, của chúng ta mà biến hiện ra sáu cõi luân hồi, mười pháp giới, tham là tham đắm vào danh vọng lợi dưỡng, vinh hoa phú quý, tài, sắc, danh, thực, thuỳ, tức là tham để thoả mãn cái tôi, cái của tôi. Đối trị với tâm tham, là tâm bố thí, cúng dường chư Phật Như Lai.
Không sân, là tâm không hận thù, oán trách, nóng nẩy, bất hoà, nông nổi, bực tức với tất cả môi trường hoàn cảnh bên ngoài, thuận hay nghịch, mà trái lại chúng ta cần có sự hiểu thấu chân tướng của tất cả mọi sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này. Từ đó buông bỏ những giả tướng, cảm giác, giả tạm, để nuôi dưỡng và phát triển tâm bồ đề, luôn suy nghĩ, lời nói, hành động, vì lòng biết ơn đền ơn, “trên đền bốn ơn nặng dưới cứu khổ ba đường”, tâm chúng ta phát ra là tâm bồ đề, luôn nghĩ đến cái khổ đau, cái mê si của chúng sinh, mà thương sót, giúp đỡ bình đẳng cho tất cả chúng sinh không điều kiện, phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, như là quan tâm đến người thân yêu của mình và chính bản thân mình vậy. 
Không si, là không mờ mịt, không bị cảnh giới bên ngoài chi phối tâm thanh tịnh vô nhiễm của chúng ta, vì vũ trụ nhân sinh này, đều là giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, hoặc là không có. Khi chúng ta hiểu thấu được chân tướng sự thật của tất cả sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, hiểu thấu được các đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới mà chư Phật Như Lai đã
thuyết giảng, truyền đạo, giới thiệu Phật pháp cho chúng ta. Chúng ta được bình đẳng tự giác học Phật tu pháp, có được chân thật lợi ích trí tuệ, công đức, phước báu, thì chính là chúng ta đã có sự giác ngộ hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chúng ta cần buông bỏ những giả tướng đó, để được tâm khai ý giải, sự hiểu biết trí tuệ, công đức, phước báu của chúng ta sẽ ngày một tăng trưởng, trí tuệ, công đức, phước báu ngày một thêm lớn, chúng ta sẽ phá hết triệt để tâm si mê, mờ mịt. 
2.1. Tam quy y, là quy y “Phật Pháp Tăng”, nói cách khác là quy y “Giác Chính Tịnh”, cũng tức là chúng ta do bị tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, tâm có phân biệt, vọng tưởng, chấp trước, tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri, tà kiến, tự tư tự lợi, ích kỷ keo kiệt, ghen ghét đố kỵ, tự cao tự đại, cho nên mới biến hiện ra sáu cõi luân hồi ba đường ác, và mười pháp giới. Chúng ta sống trong môi trường hoàn cảnh hiện nay, bị ô nhiễm bởi ngũ trược ác thế, chịu nhiều khổ đau, phiền não, ô nhiễm nghiêm trọng, chính vì thế mà chúng ta cần nên quy y Phật, pháp, tăng hay quy y “Giác Chính Tịnh”. Chúng ta muốn quy y là nương tựa vào tam bảo “Phật, Pháp, Tăng” hay “Giác, Chính, Tịnh”, thì chúng ta cần tự giác học Phật tu pháp môn, để có được sự giác ngộ hiểu biết trí tuệ, hiểu thấu được chính pháp trong Phật pháp, tu học theo tam học “Giới Định Huệ” và đi theo con đường Bát chính đạo. 
Quy y Phật, chính là tìm về, khôi phục lại bản giác, bản thể, thật tướng, chân như bổn tính, chân tâm của chúng ta, cũng như của tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, đều có Phật tính, nhưng hiện nay chúng ta đang bị vô minh, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, phân biệt, chấp trước, vọng tưởng che lấp sự hiểu biết trí tuệ Phật.
Quy y Pháp, đó chính là việc chúng ta nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, từ đó hiểu thấu được chính pháp trong Phật giáo và có được sự hiểu biết trí tuệ cao đẳng, về chân tướng sự thật của tất cả các sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, để buông bỏ những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, phiền não, khổ đau, buồn chán, thất vọng bằng cách tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, để tâm chúng ta được thanh tịnh đến tịnh diệt, phá mê si, mờ mịt khai mở hiểu biết trí tuệ công đức, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính, cầu nguyện vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, tu hành viên mãn thành chư Phật Như Lai.
Quy y Tăng, là việc chúng ta giữ gìn tâm chân thành, thật thà, thành thật, hiền hoà, khiêm tốn, giản dị, tiết kiệm, thanh tịnh, bình đẳng, giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, từ bi bác ái, tâm bao dung độ lượng, đối với tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới. Chúng ta quyết không cho những sự ô nhiễm, cám dỗ, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, cũng như việc giữ gìn giới luật và pháp luật, không cho bất kỳ sự xâm phạm nào, làm ảnh hưởng xấu tà ác đối với tâm thanh tịnh đến tịch diệt, tâm bồ đề kiên cố, bền vững của chúng ta, được như vậy thì là thành công tu hành viên mãn thành chư Phật Như Lai. 
2.2. Cụ túc chúng giới, là những việc có lợi ích hiểu biết trí tuệ, công đức, phước báu lớn nhất cho chúng ta, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới. Chúng ta cần tự giác học Phật tu pháp đạt đến viên mãn và có đầy đủ vạn đức, vạn năng, từ đó chúng ta sử dụng ba thừa pháp làm pháp phương tiện thiện xảo, để giúp đỡ, thương sót, giới thiệu Phật pháp, bình đẳng cho mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, để có được lợi ích trí tuệ, công đức, tu hành các công đức, phát được bồ đề tâm bền vững, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
2.3. Không phạm oai nghi, là việc chúng ta đang sinh sống trong một cộng đồng, một tổ chức xã hội, quốc gia, dân tộc, nhân loại trên toàn thế giới, thì cần phải sống như thế nào, để không vi phạm oai nghi, không làm mất đi hình ảnh tốt đẹp, cao quý, thiêng liêng của Phật giáo, không làm cho đại chúng trong xã hội hiểu lầm, mất niền tin yêu, kính trọng đối với Phật giáo. Chúng ta cần bảo vệ và xây dựng hình ảnh tốt đẹp, chân thành, trang nghiêm tốt đẹp nhất đối với Phật giáo, làm thế nào để cho mọi người trong xã hội, nhân loại trên toàn thế giới, cũng như chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, sinh tâm “tín nguyện hạnh”, “tín giải hành chứng”, tự giác học Phật, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Chúng ta ngày nay đang sống trong một thế giới phát triển toàn cầu hoá, về mọi mặt đời sống, văn hoá xã hội, an ninh chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật, sự va chạm tiếp xúc rất mạnh, rộng khắp, rất nhiều nguồn thông tin dữ liệu mâu thuẫn, trái ngược nhau, như các quan niệm về tư tưởng, đạo đức, lối sống, phong cách, hiểu biết, trình độ, trí tuệ, vùng miền khu vực, tôn giáo, triết học, đảng phái, dân tộc, cảnh giới, pháp giới cũng khác nhau. 
3.1. Phát được bồ đề tâm vững bền, kiên cố, bất thoái, là điều kiện đầy đủ cần thiết nhất, để đến khi hết thời gian thọ mạng được vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc, tu hành đạt đến viên mãn thành chư Phật Như Lai. Chúng ta có bồ đề tâm bền vững, là bao gồm tất cả tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, từ bi bác ái, chí thiện, bao dung độ lượng, tâm đại từ đại bi, chí công vô tư, tâm chịu khổ thay và giúp đỡ, quan tâm, thương sót, bình đẳng đối với tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, và với bản thân, là thâm tâm cầu thiện, cầu đức, tích công bồi đức. Chúng ta hiểu được bồ đề tâm, là vua của các pháp, là ngồn gốc sinh ra các pháp chính pháp, thì chúng ta phải làm như thế nào, và dựa vào nhân duyên gì, để sinh khởi được bồ đề tâm bền vững, có thể tổng kết thành mười nhân duyên tiêu biểu. 
Thứ nhất là ơn Tam bảo “Phật pháp tăng” và các thiện tri thức, người dẫn đạo, giới thiệu Phật pháp bình đẳng cho chúng ta có được chân thật lợi ích trí tuệ, công đức vô lượng vô biên. 
Thứ hai là sự biết ơn đền ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ, người thân của chúng ta. Tổ tiên, cha mẹ sinh ra chúng ta, nuôi dưỡng, thương sót, giúp đỡ chúng ta được trưởng thành, được hưởng tất cả những niềm vui, tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. 
Thứ ba là sự biết ơn đền ơn quốc gia, dân tộc, các tổ chức hội quần chúng trong xã hội, các vị lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, các cấp lãnh đạo trong nước và quốc tế. Đã mang lại chân thật lợi ích công đức, phước báu, của cải, vật chất, sức khoẻ, tinh thần, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, giúp ích cho chúng ta có được đời sống tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, tự tại, bình yên bền vững. 
Thứ tư là sự biết ơn đền ơn thí chủ, mọi người cung cấp, bố thí cúng dường thực phẩm, y phục, y dược, tài bảo, các phương tiện, vật chất, công sức, tinh thần, để xây dựng, bảo vệ chùa, đạo tràng, để hoằng pháp lợi sinh, tạo được nhiều công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng. 
Thứ năm là sự biết ơn đền ơn tất cả mọi người, nhân loại trên toàn thế giới, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới. Chúng sinh trong đời hiện tại và từ vô thỉ kiếp đến nay, có quan hệ vô cùng gần kề, mật thiết, gắn bó với nhau, như điều kiện tất yếu để tồn tại, phát triển, không thể tách rời.    
Thứ sáu là việc sinh lão bệnh tử, do chúng ta có tâm xấu tà ác, phân biệt, chấp trước, vọng tưởng. Đây là nguyên nhân chính cội gốc sinh ra quả báo sinh tử luân hồi trong sáu cõi, ba đường ác, sinh lão bệnh tử. Chúng ta hiểu được điều đó, thì cần chủ động, tự giác học Phật, tu pháp, phát được bồ đề tâm, để có đủ điều kiện được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, được giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, tu hành đạt đến viên mãn thành chư Phật Như Lai.  
Thứ bẩy là sự tin tưởng vào chính bản thân mình có Phật tính. Bổn sư Thích Ca Mô Ni Phật đến thế gian này, và trụ ở thế gian này tám mươi năm, trong bốn mươi chín năm giảng kinh thuyết pháp vì người diễn nói, chỉ vì một nhân duyên lớn nhất, duy nhất, là nói rõ được thật tướng của tất cả mọi sự vật, sự việc, hiện tượng, trong vũ trụ nhân sinh này, đều là giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, hoặc là không thật có, và khai thị cho chúng ta, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, biết được sự thật vô cùng cao quý, giá trị chân thật, là trong mỗi con người chúng ta và tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới đều có Phật tính và đều được thành Phật Như Lai trong tương lai. 
Thứ tám là sám hối những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác. Chúng ta hiểu thấu việc sám hối tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, là vô cùng quan trọng, vì từ vô thỉ kiếp đến nay, chúng ta đã tạo rất nhiều tội lỗi, phải chịu quả báo luân hồi trong sáu cõi, ba đường ác, khi chúng ta sám hối, buông bỏ được tất cả những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, sự phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, thì chúng ta liền thực chứng được tâm bồ đề bền vững, khôi phục được chân như bổn tính, chân tâm, pháp thân, bản thể, Phật tính, trí tuệ Phật, được minh tâm kiến tính thành Phật Như Lai.    
Thứ chín là việc trí thành tha thiết cầu nguyện từng ngày, từng phút, từng giây được vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc, thành bậc bất thoái tu hành đạt đến viên mãn thành Phật Như Lai. Tất cả thánh chúng ở thế giới Tây phương cực lạc, đều là tâm thanh tịnh đến tịch diệt, đức Phật A di đà dùng oai thần lực, với bốn tám đại nguyện của mình để sáng lập thế giới Tây phương cực lạc, Tịnh thổ. Chúng ta biết rõ việc tự giác học Phật tu pháp tại cõi uế độ, thế giới Ta bà này đạt được thành tựu, chứng đắc được quả vị Phật Như Lai, là điều rất khó khăn, vất vả, do thời gian thọ mạng của con người khoảng trăm năm thật ngắn ngủi, giả tạm, hoàn cảnh ô nhiễm bởi ngũ trược, ác thế, chi phối, vướng bận, cản trở chúng ta tu hành các công đức, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Thứ mười là mong muốn Phật pháp trụ lại trên thế gian muôn năm. Chúng ta cần phải tinh tấn, chủ động, tự giác học Phật tu pháp, tu trì “Giới Định Huệ”, hiểu thấu Phật pháp, “tín giải hành chứng” được Phật pháp, xứng đáng là đệ tử của chư Phật Như Lai. Chúng ta là người kế thừa tiếp nối huệ mạng, sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh của Phật Như Lai, để mang lại chân thật lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, được hưởng cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững.  
Mười nhân duyên tiêu biểu nhất trên đây là nguồn động lực biết ơn đền ơn, phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, giúp ích cho chúng ta tự giác học Phật tu pháp, trong một đời này, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật.
3.2. Tin sâu đạo lý nhân quả, chính là quy luật nhân quả bất biến, không thay đổi, nhưng có sự bù trừ, bất cứ chúng sinh nào tạo ra nhân duyên gì, thì phải chịu quả báo ấy, không ai có thể chịu thay thế cho ai được, chư Phật Như Lai cũng không chịu thay thế cho chúng ta được. Sự việc chúng ta đã tạo tác làm ra nhân duyên gì, thì nhất định phải nhận quả báo tương ứng đó, chúng ta gieo nhân chính thiện, thì được quả báo chính thiện, chúng ta gieo nhân duyên xấu tà ác, nhất định phải nhận quả báo xấu tà ác. Chúng ta gieo nhân thiện ở ba đường thiện, là tâm của năm giới, mười thiện, thì được quả của ba đường thiện, ở cõi a tu la, người, trời. Chúng ta gieo nhân duyên chính thiện giải thoát sáu cõi luân hồi, tu học theo Bát chính đạo, tứ diệu đế, mười hai nhân duyên, mười tám giới, lục độ vạn hạnh, niệm Phật cầu được vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc, thiền định được minh tâm kiến tính thành Phật. Nói cách khác, chúng ta gieo nhân của nhị thừa, tam thừa, đại thừa, Phật thừa, thì quả báo được giải thoát sáu cõi luân hồi, thành bậc Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, chư Phật Như Lai. 
Chúng ta từ vô thỉ kiếp đến nay, đa số đều gieo nhân của ba đường ác và nhân thiện ở ba đường thiện, cho nên chúng ta vẫn chưa ra khỏi sáu cõi luân hồi, thì việc chúng ta chịu quả báo luân hồi là điều đương nhiên, không thể thay đổi được vận mệnh giải thoát chứng nhập Niết bàn. Nhưng việc nhân quả đó, không ai có thể thay đổi, chịu thay cho những quả báo thiện ác đó, nhưng cũng còn có cách gần giống như vây, đó là chúng ta giúp đỡ, thương sót bình đẳng cho những chúng sinh bị quả báo ác, phải chịu sự sống khổ đau, phiền não đến cùng cực. Chúng ta làm cho họ thức tỉnh, tự giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, tự cứu lấy chính mình thoát khỏi mọi khổ đau, phiền não, được tu học Phật pháp, hiểu thấu được chân tướng của mọi thứ trong vũ trụ nhân sinh này, và được giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, được hưởng tự do, thành đạt, bình yên bền vững. Như vậy để giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, chỉ có con đường tốt nhất là tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. Tuy nhiên việc chúng ta đã tạo ra những nhân duyên xấu tà ác, từ vô thỉ kiếp đến nay, thì chúng ta trong hiện tại và tương lai nhất định phải nhận quả báo xấu tà ác đó, nhưng vì chúng ta không hiểu được nhân duyên trong quá khứ, là nhân xấu tà ác gì, cho nên rất là lo lắng, phiền não, như thật ra đó chính là nhân duyên do chính chúng ta đã tạo ra trong quá khứ, thậm chí là ngay đời sống hiện tại, chúng ta đang phải trả nợ quả báo tập tính nghiệp chướng xấu tà ác đó. Khi chúng ta hiểu thấu được quy luật nhân quả, hiểu thấu được Phật pháp, thì chúng ta biết được chân tướng cuả các việc, các vật, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, để từ đó chúng ta vui vẻ nhận thọ quả báo đó, coi như là sự việc trả nghiệp nhân duyên cũ, mà chúng ta đã tạo ra trong vô thỉ kiếp đến nay. Như vậy quả báo được thọ nhận, hoà giải, thì nhân duyên xấu tà ác đã nợ trong quá khứ từ nay đã được trả hết không còn nợ ai, trong tương lai có gặp lại oan gia trái chủ, thì là bạn tốt rồi. 
Chúng ta biết quy luật nhân quả tương tác tuần hoàn không gián đoạn, nhân chúng ta đã tạo ra trong quá khứ đến thời điểm hiện tại gặp duyện hợp lại thành quả báo hiện tiền, và quả hiện tiền lại hợp với nhân của duyên trong tương lai để tạo thành quả báo mới trong tương lai. Còn nghiệp mới chúng ta biết được điều đó rồi không nên tạo nữa, mà chỉ tạo những nhân lành chính thiện, công đức mà thôi. Công đức chúng ta rất cần có, vì chỉ có nhờ công đức chúng ta mới có thể giải thoát khỏi sinh tử luân hồi sáu cõi ba đường ác, và chỉ có công đức chúng ta mới phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, cũng chỉ có công đức mới giúp chúng ta có được cuộc sống trí tuệ cao đẳng, thể lực mạnh khoẻ, tinh thần sung mãn, cả đời không bệnh, không già, không chết, biết trước giờ chết, luôn giữ được tâm bồ đề thanh tịnh, đến hết thời gian thọ mạng là sống mà được vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc, được bất thoái thành chư Phật Như Lai. Chứ không phải là chết do ốm đau, bệnh tật, khổ não, bị luân hồi trong sáu cõi và ba đường ác, chịu mọi sự sống khổ đau cùng cực. Chỉ có công đức mới có thể không tạo ra nghiệp duyên xấu tà ác, để hợp với nhân xấu tà ác đã tạo trong quá khứ, để kết thành quả báo xấu tà ác hiện tiền, như vậy việc tạo công đức mới giúp chúng ta có được lợi ích hiểu biết trí tuệ cao đẳng, có đức năng, tạo ra điều kiện thuận lợi thời gian tốt nhất, để chúng ta tự giác tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật.
Chúng ta có mặt trên cõi đời này là do nhân duyên quả báo mà tạo thành, và để trả nghiệp báo đó, do chính chúng ta đã tạo trong quá khứ. Đức Phật nói, chúng ta có được thân người là điều rất khó, nhưng giữ được thân người ở kiếp sau còn khó hơn. Vì nhân của chúng ta đã tạo trong quá khứ phải kết hợp với duyên ở đời này, quả báo chúng ta được thân làm con người phải đúng duyên tương ứng với cha mẹ, đúng với các sự việc, sự vật, hoàn cảnh, thời gian, địa điểm nơi mà chúng ta đến làm con người, để trả nghiệp báo đó. Chúng ta hiện nay có được hưởng chân thật sự tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên, có được công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, có được bồ đề tâm vững bền. Tất cả những sự tốt đẹp viên mãn hoàn thiện đó, là quả báo của nhân duyên trong quá khứ, mà chính chúng ta đã tạo ra, nhân tốt lành, chính thiện đó. Vì vậy mà đến đời này chúng ta được hưởng một cách đương nhiên, không ai có thế thay đổi được quy luật nhân quả đó. 
3.3. Đọc tụng đại thừa, đây là một phương pháp rất quan trọng, tốt đẹp nhất để chúng ta có được sự lợi ích hiểu biết trí tuệ, công đức, phước báu. Vì mỗi lần chúng ta đọc tụng đại thừa kinh giáo, hiểu thấu được những đạo lý nhân quả, phương pháp, nguyên tắc, cảnh giới của các pháp giới trong kinh giáo, là một lần chúng ta tập luyện, tích luỹ những giá trị hiểu biết trí tuệ, tinh hoa cao đẳng nhất trong Phật pháp, để mang lại cho chúng ta có được chân thật cuộc sống trí tuệ cao đẳng, tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. Khi chúng ta đọc tụng một lần một quyển kinh giáo đại thừa, hay một quyển sách nào đó có “giáo lý hành quả” trong Phật giáo, thì chúng ta được quán đỉnh một lần hiểu biết trí tuệ cao đẳng. Tức là chúng ta thu nhận được một lần lợi ích hiểu biết trí tuệ, công đức, phước báu, và khi chúng ta đọc tụng hai lần một quyển kinh giáo đại thừa, thì chúng ta được quán đỉnh hai lần, tức là chúng ta thu nhận được hai lần lợi ích hiểu biết trí tuệ, công đức, phước báu. Cứ như vậy, chúng ta càng đọc tụng đại thừa nhiều lần và “lý giải hành chứng” được sâu sắc những đạo lý, phương pháp, cảnh giới đó, đọc tụng kinh sách “tuỳ văn nhập quán”, thì chúng ta có được nhiều lợi ích hiểu biết trí tuệ, công đức, phước báu vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn.
Chúng ta đọc tụng đại thừa, Phật thừa, cũng như việc đọc tụng nhị thừa, tam thừa, đó là thanh văn thừa, duyên giác thừa, bồ tát thừa và đọc tụng các sách liên quan đến lịch sử văn hoá, giáo dục xã hội, an ninh chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật, truyền thống bốn nghìn năm lịch sử của nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng và lịch sử phát triển nhân loại trên toàn thế giới. Để chúng ta hiểu thấu được tất cả quá trình sinh ra, trưởng thành, thịnh vượng, suy tàn, diệt vong, tất cả mọi mặt của vấn đề. Cũng như sự nghiệp thành đạt hiểu biết trí tuệ cao đẳng, hay thất bại ngu si, mờ mịt của cá nhân một con người, một tổ chức xã hội, đảng phái, tôn giáo, quốc gia, dân tộc, nhân loại trên toàn thề giới. Tức là chúng ta nắm chắc được vấn đề, nguyên tắc, đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới, từ đó rút ra được những bài học bổ ích thiết thực, công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, của những vấn đề liên quan đến việc thịnh vượng, suy tàn đó. Từ đó mà tự giác học Phật tu pháp, sửa chữa, tự làm mới tư tưởng, đạo đức, phong cách, nhận thức hiểu biết của chúng ta, sao cho đúng với đạo lý, phương pháp, cảnh giới chính pháp trong Phật pháp, mà đức Phật Như Lai đã dậy bảo chúng ta. Từ đó chúng ta suy ngẫm rút ra những bài học kinh nghiệm, những điều tốt đẹp, tinh hoa, trí tuệ cao đẳng, để chúng ta kế thừa và phát triển nó. 
Việc đọc tụng đại thừa là để nhận ra những khuyết điểm, sai lầm, tội lỗi, để chúng ta sửa chữa, thay đổi, tự làm mới những vẫn đề đó, cho nó tốt đẹp, hoàn thiện toàn diện hơn. Để giải quyết được các vấn đề đó một cách tốt nhất, chỉ có con đường tích cực, chủ động, tự giác học tập rèn luyện theo tấm gương tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh và Phật giáo, đó chính là xây dựng con người mới, con người cách mạng có đầy đủ sự hiểu biết trí tuệ cao đẳng, luôn sống khiêm tốn, giản dị, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư, đối với mọi người, mọi sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này. Chúng ta phát tâm bồ đề bền vững, sẵn sàng hy sinh phụng hiến tất cả tính mạng, của cải, vật chất, tinh thần, cho nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng, nhân loại trên thế giới. Vì sự ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững của một cá nhân, gia đình hạnh phúc, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, quốc gia, dân tộc giầu mạnh, thế giới hoà bình, đoàn kết, thống nhất, hợp tác, phát triển bình đẳng cùng có lợi. 
Như vậy, chúng ta đọc sách lịch sử, cũng như đọc các sách khác, về mọi mặt đời sống văn hoá xã hội, giáo dục, khoa học kỹ thuật, chúng ta nắm được vẫn đề, còn để giải quyết vấn đề một cách tốt nhất, hiệu quả nhất, triệt để nhất, thì chúng ta phải tự giác học Phật giáo và học tập tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh. Vì Phật giáo và tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh là nền văn hoá giáo dục hiểu biết trí tuệ, chí công vô tư, chí thiện, trí tình, trí lý, mang lại lợi ích trí tuệ, công đức, vô lượng vô biên, bình đẳng cho chúng ta, cũng như cho tất cả chúng sinh.
4.4. Khuyến tấn hành giả, là khuyên bảo mọi người cùng tự giác học Phật tu pháp, là phân tích lý giải hành chứng, truyền đạo, giới thiệu Phật giáo, đến với mọi người, nhân loại, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, hiểu thấu được Phật giáo và tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh. Từ đó có được chân thật lợi ích hiểu biết trí tuệ, công đức, phước báu, vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn. Chúng ta biết Bổn sư Thích Ca Mô Ni Phật cả cuộc đời với tám mươi năm trụ thế, giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, đã giúp đỡ, thương sót, truyền đạo, khuyến đạo, giới thiệu Phật pháp bình đẳng cho chúng ta, cũng như chúng sinh tận hư không kháp các pháp giới, có được chân thật lợi ích hiểu biết trí tuệ cao đẳng, công đức, phước đức, có đời sống hạnh phúc, thành đạt, bình yên bền vững. Cả cuộc đời Ngài làm công tác văn hoá giáo dục trí tuệ Phật, để hoằng pháp lợi sinh, làm ra một tấm gương tốt nhất, chuẩn mực tốt nhất, cho chúng ta học tập, làm theo. 
 
 
 
Phần III.Lục hoà kính
 
Thân hoà đồng trú, là nói chúng ta sống chung một chỗ, một gia đình, một đạo tràng, một ngôi chùa, một tổ chức tập thể, môi trường, hoàn cảnh, xã hội, một tôn giáo, đảng phái, quốc gia, dân tộc, thế giới loài người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới. Chúng ta cần phải sống hoà bình, tập trung dân chủ, đoàn kết, thống nhất, hợp tác, phát triển bình đẳng cùng có lợi. Chúng ta phải có ý thức, như thân, khẩu, ý nghiệp hoà đồng, bình đẳng, đoàn kết, thống nhất biết giúp đỡ, thương sót mọi người, cũng như tất cả chúng sinh bị khổ đau, phiền não, để cho họ sớm được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui và có được cuộc sống trí tuệ cao đẳng, phát được bồ đề tâm bền vững. 
Khẩu hoà vô tranh, là lấy lời hoà nhã, hoà đồng, khiêm tốn, giản dị, hiền hoà, dung hợp, giải thích cho nhau cùng hiểu thấu, hiểu triệt để, tất cả chân tướng sự thật của tất cả sự vật, sự việc, hiện tượng, trong vũ trụ nhân sinh này, đều là giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, vạn pháp đều không, vạn pháp nhất như, tất cả mọi thứ đều quy về một, là đồng nhất, đồng thể, không được nói dối, nói bóng bẩy, nói hai chiều, nói lời xấu tà ác, mà phải nói thật công bằng bình đẳng, hoà hợp, dung hoà, khiêm tốn, giản dị, lịch sự, đúng mức độ, lễ tiết, lễ kính, tôn trọng, để có được chân thật lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng.
ý hoà đồng duyệt, là ý kiến của chúng ta cần phải tập trung dân chủ, thống nhất, phát triển đúng hướng, đúng đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới chính pháp trong Phật pháp, tất cả những tư tưởng ý kiến đó được thể hiện bằng pháp luật, giới luật trong Phật pháp, áp dụng bình đẳng cho mọi người, cũng như đối với tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, thể hiện được sự hiền hoà, dung hợp, đoàn kết, xây dựng, đồng thuận cao nhất, vì lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, cũng như mang lại chân thật cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững cho chúng ta, cũng như cho tất cả chúng sinh tận hư không các pháp giới.
Giới hoà đồng tu, là sự việc chúng ta sống trong một thế giới bị ô nhiễm bởi môi trường, hoàn cảnh, như những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, tâm tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri, tà kiến, tâm phân biệt, vọng tưởng, chấp trước rất nặng, cho nên chúng ta cần phải quyết trí dũng mãnh, tinh tấn, rốt ráo, chủ động, tích cực, tự giác học Phật tu pháp, luôn luôn giúp đỡ lẫn nhau và đồng thuận tuân thủ theo pháp luật của Nhà nước, giới luật trong Phật pháp, đó là ngũ giới, thập thiện và nhiều giới luật khác trong Phật giáo, để từ việc giữ gìn giới luật, sinh định tâm, sinh huệ tâm, đó chính là tam học cơ bản “Giới Định Huệ”, là nền tảng bền vững, kiên cố cho sự phát triển tăng trưởng thượng duyên, tu hành các công đức viên mãn viên thành Phật Như Lai.
Lợi hoà đồng quân, là chỉ việc mà chúng ta làm có lợi cho mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, thì cũng chính là việc mang lại cho chúng ta rất nhiều những lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng. Nhưng những lợi ích đó, chúng ta không nên thọ hưởng một mình, mà cần chia sẻ, bố thí, cúng dường, ban tặng cho mọi người, một cách bình đẳng, thì lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng đó, càng kết nhân duyên chính thiện, thì lợi ích đạt được công đức, trí tuệ, càng sâu dày rộng khắp, vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn. 
Kiến hoà đồng giải, là sự việc chúng ta tự giác học Phật tu pháp, có được thành tựu đắc đạo quả vị, hiểu thấu được Phật pháp, và buông bỏ được tất cả những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, có được tất cả những lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, thì chúng ta cần chia sẻ, giúp đỡ, quan tâm, thương sót, dẫn đạo, truyền đạo, khuyến đạo, giới thiệu Phật pháp, và tư tưởng, đạo đức, phong cách, hiểu biết trí tuệ cao đẳng đó, bình đẳng cho mọi người, cũng như cho tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, được “tín giải hành chứng” Phật pháp, cùng nhau trí dũng mãnh, tinh tấn, rốt ráo, chủ động, tích cực, tự giác học Phật, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A di đà Phật, được minh tâm kiến tính, khôi phục được chân như bổn tính, Phật tính, cầu nguyện được vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc, thành bậc bất thoái tu hành đến viên mãn thành Phật Như Lai.
Chúng ta tự giác học Phật tu pháp, với mục đích đạt được những hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chí thiện, chí công vô tư, đúng đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới trong Phật pháp. Tức là chúng ta tự giác tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được tâm bồ đề, được minh tâm kiến tính thành Phật. Chúng ta cần làm tấm gương tốt nhất, sao cho không để lại một chút dấu vết, không một chút tạo tác, y như đồng tâm, cùng hạnh nguyện, đức năng, trí tuệ với đức Phật A di đà và mười phương ba đời chư Phật Như Lai. 
 
 
 
 
Phần IV.Tam học
 
Tam học chính là học “Giới Định Huệ”, tuy là ba nhưng lại là một thể thống nhất, không phân chia, không tách rời, đồng thời trong một cái có đầy đủ cả hai cái kia. Chúng ta có thể lấy ví dụ “Giới Định Huệ”, giống như chiếc bóng đèn điện, thì dây tóc bóng đèn tượng trưng cho định tâm, vỏ của bóng đèn là pháp luật, giới luật, còn ánh sáng của bóng đèn tượng trưng cho hiểu biết trí tuệ, được gọi là trí huệ, hay còn được gọi là tuệ giác. Như vậy thì cần có đầy đủ ba điều là “Giới Định Huệ”, thì chúng ta mới sinh khởi được bồ đề tâm, đây là nền tảng cơ bản bền vững, kiên cố cho chúng ta tự giác học tập Phật pháp, tu hành các công đức. Đây là nguyên lý, đạo lý, phương pháp cơ bản nhất, cũng giống như tu hành theo Bát chính đạo, là con đường đúng phương hướng, thẳng tắt nhất, để xây dựng, bảo vệ, và phát triển tâm bồ đề bền vững của chúng ta. 
Giới là giới luật trong Phật pháp, cũng như trong pháp thế gian, như luật pháp của nhà nước và quốc tế. Chúng ta nhất định không được vi phạm, vì đây thể hiện sự kính trọng, hiểu biết trí tuệ, đối với chúng ta, vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tư tại, bình yên của nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng, và toàn thể nhân loại trên thế giới. Để xây dựng, bảo vệ và phát triển một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, quốc gia giầu mạnh, thế giới hoà bình, đoàn kết, thống nhất hợp tác, phát triển bình đẳng cùng có lợi. Chúng ta cần phải chấp hành, tuân thủ theo đúng những điều luật, luật pháp quy định đó. Chúng ta giữ gìn các luật pháp, giới luật một cách tinh nghiêm, khai giới, cứu khổ, cứu nạn, và khuyên bảo mọi người cùng khai giới. Điều này chân thật là sự xây dựng, nuôi dưỡng, và phát triển tâm bồ đề bền vững, được minh tâm kiến tính thành Phật. Giới là những giới luật, cũng là nguyên tắc, đạo lý, phương pháp, để bước vào cửa nhà Phật, vì vậy chúng ta không giữ giới, thì không thể bước vào được cửa nhà Phật, vì nếu chúng ta có vào cửa Phật, mà không giữ giới luật, thì sẽ không có được thành tựu, tâm thanh tịnh, bồ đề tâm bền vững. Mà ngược lại mang thêm tội lỗi, làm nhiễu loạn, phá hoà hợp tăng, làm xấu hình ảnh tốt đẹp, cao thượng của đạo Phật, làm cho đại chúng hiểu lầm, gây mất lòng tin yêu, kính trọng đối với Phật giáo. Đây là tội cực trọng, nhất định bị đoạ lạc a tỳ địa ngục, chịu nhiều khổ đau, phiền não, thật đáng thương xót vô cùng. 
Chúng ta giữ gìn giới luật, khai giới, để tất cả mọi người cùng được hưởng chân thật lợi ích hiểu biết trí tuệ, công đức viên mãn, vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn. Chúng ta trì giới luật tinh nghiêm, thì mời hiểu thấu được chân tướng của tất cả mọi sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, đều là các giả tướng, được gọi là định tâm. Sự việc buông bỏ những giả tướng, những tập tính nghiệp chướng xấu tà ác, phiền não, đau khổ, để chứng đắc được tâm bồ đề bền vững, được gọi là huệ tâm. Định tâm là định hướng, kiên định ở một pháp môn, định là sự hiểu thấu các pháp thế gian và xuất thế gian, từ đó tìm thấy cho mình một con đường tu hành chân chính, phù hợp căn cơ nhất đối với chúng ta. Đó là con đường tu theo Bát chính đạo, tứ diệu đế, mười hai nhân duyên, mười tám giới, tam phước, lục hoà, tam học, lục độ, Phổ Hiền hạnh nguyện, với 8.400 pháp môn trong Phật giáo, ba đại tạng kinh và mười hai giáo. Chúng ta lựa trọn và định tâm ở một pháp môn, huân tu dài lâu, vì Phật pháp là dung thông, là đạo đồng một pháp môn, một bộ kinh giáo thông đạt, thì tất cả các kinh giáo khác đều thông đạt, và đều đến được sự viên mãn hiểu biết trí tuệ cao nhất. Từ đó biết được các pháp đều là pháp phương tiện thiện xảo, đều là giả tạm hoặc là không có thật, vì tất cả các pháp thế gian và pháp xuất thế gian đều do nhân duyên sinh, nên nó cũng không có thật, chúng ta cũng không chấp trước vào pháp thế gian, hay pháp xuất thế gian, mà quyết tâm tự giác học Phật tu pháp, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Định tâm là do chấp hành pháp luật, giới luật mà sinh ra định tâm thanh tịnh, từ đó tâm chúng ta không còn nghi vấn, mâu thuẫn, mà tâm bình yên, thanh tịnh, vì tất cả mọi sự vật, sự việc hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, chúng ta đều hiểu thấu và từ đó có được niềm tin sâu sắc, chính xác, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, để lựa chọn được cho mình một hướng đi, một con đường chính xác, minh bạch, thấu triệt nhất, thì tâm của chúng ta liền có định, có sự tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên, thanh tịnh đến tịnh diệt, chúng ta càng giữ gìn bảo vệ giới luật, cũng như khai giới, khuyến giới được tinh nghiêm, thì sức định tâm của chúng ta càng lớn, càng vững bền, đạt đến định tịch diệt viên mãn nhất thành tâm của chư Phật Như Lai. 
Huệ tâm hay gọi là tuệ giác, hiểu biết trí tuệ cao đẳng về những sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, một cách minh bạch, thấu triệt nhất, để từ đó buông bỏ tất cả những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, những tập tính nghiệp chướng thói quen xấu tà ác, phát được bồ đề tâm, đây là cội nguồn sinh ra tất cả các pháp. Như vậy tuệ giác chính là do chúng ta giữ gìn giới luật, khai giới, khuyến giới, từ đó hiểu thấu được Phật pháp sinh ta định tâm, từ định hướng chọn lựa được pháp môn tu hành các công đức, từ sự sửa chữa, thay đổi, tự làm mới những tập tính nghiệp chướng xấu tà ác, buông bỏ được những giả tướng, thì tâm chúng ta liền được khai mở hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chân thật lý giải hành chứng, giác ngộ được thật tướng của tất cả các pháp, vạn sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, cũng như trên khắp các pháp giới chúng sinh, thì đó chính là sự hiểu biết trí tuệ cao đẳng, gọi tắt là Huệ, tu hành các công đức đạt đến viên mãn thành trí tuệ Phật Như Lai. 
 
 
Phần V.lục độ
 
Lục độ bao gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ.
1. Bố thí, còn có cách gọi khác đối với những gì thông thường thể hiện sự kính trọng, trí thành cung kính nhất thì được gọi là cúng dường.  
Bố thí là sự cho đi, ban tặng, tất cả những gì mà chúng ta có, như tính mạng, của cải, vật chất và tinh thần. Nhằm mục đích có được lợi ích hiểu biết trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báu, cũng như sự tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững, có được đời sống trí tuệ cao đẳng cho mọi người, nhân loại trên toàn thế giới, cũng như tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới. Chúng ta làm công việc bố thí, cúng dường, mà khuyên bảo mọi người, cùng phát tâm bố thí, cúng dường, để có được chân thật những lợi ích trí tuệ, công đức, phước báu, vô lượng vô biên.
Việc bố thí là sự biết ơn đền ơn, biết khổ nạn, cứu khổ nạn và cũng là sự hy sinh phụng hiến tất cả cuộc đời, vì nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng, vì nhân loại hoà bình trên thế giới và tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới. Sẵn sàng hy sinh phụng hiến tất cả tính mạng, của cải, vật chất và tinh thần, để đạt được sự tốt đẹp, lợi ích trí tuệ, công đức, phước báu đó. Chúng ta làm việc đó với tâm bồ đề bền vững, thì thành tựu lợi ích trí tuệ, công đức cho chúng ta là vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn. Nhất định chúng ta được giải thoát sinh tử luân hồi, tu hành viên mãn viên thành Phật đạo. Bố thí là sự hiểu thấu Phật pháp, y giáo phụng hành, biết được chân tướng sự thật của các pháp, sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, đều là những giả tướng và buông bỏ những giả tướng, những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác. 
Chúng ta tự giác học Phật tu pháp đạt đến viên mãn phát được bồ đề tâm bền vững, được minh tâm kiến tính thành Phật, mới được xem là đại bố thí viên mãn nhất. Cũng là sự biết ơn đền ơn, biết khổ nạn, cứu khổ nạn, một cách dũng mãnh, tinh tấn, rốt ráo, chủ động, tích cực, tự giác nhất, đạt được hiệu quả thành tựu cao nhất. Việc bố thí không những là việc tốt đẹp nhất, và mang lại lợi ích trí tuệ, công đức, phước báu rất nhiều, không thể tính đếm hết, cho nên chúng ta phải tu hành các công đức, cũng như tu hạnh bố thí cả cuộc đời này, cũng như đời đời kiếp kiếp để hoằng pháp lợi sinh.
2. Trì giới là giữ gìn giới luật, khai giới, tức là tự mình tu hành các công đức, và giữ các giới luật tinh nghiêm, mà còn khai giới cho mọi người được biết các giới luật trong Phật pháp, cũng như pháp luật của Nhà nước, luật pháp quốc tế của tất cả nhân loại trên toàn thế giới. Từ đó giúp ích cho mọi người có được sự hiểu biết trí tuệ cao đẳng, công đức, tránh được những sai lầm, mờ mịt, mất phương hướng, không phân biệt đâu là thiện ác, phải trái, nhân ngã thị phi, tốt xấu, thật giả lẫn lộn, mà tạo tác làm ra những tội lỗi nghiêm trọng đáng tiếc. Chúng ta biết từ việc trì giới tinh nghiêm, sẽ giúp cho chúng ta có được sự lựa chọn đúng phương hướng, mục đích, để từ đó buông bỏ những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, giả tướng, để có được sự hiểu biết trí tuệ cao đẳng, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Chúng ta biết trong cuộc sống hiện tại có rất nhiều điều khoản, được pháp luật Nhà nước quy định, ban hành, chỉ đạo, để chúng ta chấp hành, cũng như khuyên bảo mọi người chấp hành, làm theo. Vì pháp luật Nhà nước lập ra trên nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết, thống nhất, hợp tác, phát triển bình đẳng cùng có lợi. Không phân biệt, tôn giáo, đảng phái, giai cấp, dân tộc, tất cả đều phải tôn trọng, tuân theo, một cách bình đẳng, không ai được làm trái với những quy định đó. Vì làm trái với các quy định đó, là vi phạm pháp luật là tội lỗi, đi ngược lại lợi ích hiểu biết trí tuệ, công đức, phước báu của mọi người. 
Giới luật trong Phật pháp, chúng ta giữ gìn giới luật để có được lợi ích hiểu biết trí tuệ, công đức, phước báu vô lượng vô biên. Nếu chúng ta không chấp hành làm theo giới luật, thì đó là tội lỗi, đi ngược lại với lợi ích hiểu biết trí tuệ, công đức, phước báu, đi ngược lại với chân tướng của mọi sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này và đi ngược lại với chính chân như bổn tính của chúng ta. Chúng ta học Phật tu pháp nhất định không được vi phạm các giới luật, mà còn phải có tránh nhiệm nghĩa vụ hướng dẫn, giúp đỡ, truyền đạo, giới thiệu Phật pháp cho mọi người biết được việc giữ gìn giới luật tinh nghiêm, được định tâm và hiểu biết trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báu vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn.
3. Nhẫn nhục, là sự chịu đựng những tác động, ảnh hưởng của hoàn cảnh, môi trường bên ngoài thuận hay nghịch đến chúng ta. Đó chính là những tập tính nghiệp chướng xấu tà ác, giả tướng, đã làm cho chúng ta phải chịu cảnh luân hồi trong sáu cõi ba đường ác, phải chịu bao nhiêu nỗi khổ đau, phiền não, giống như lửa lớn đốt cháy thân người vậy. Chính vì tất cả những điều đó mà chúng ta tự giác học Phật tu pháp, phát được tâm bồ đề bền vững, được minh tâm kiến tính thành Phật và chỉ có làm được như vậy, thì chúng ta mới có đủ hiểu biết trí tuệ cao đẳng, vạn đức, vạn năng vượt qua những chướng ngại, cản trở bước đường tu hành đạo vô thượng chính đẳng chính giác. Chúng ta học Phật tu pháp có được tâm bồ đề, là cội nguồn của các pháp và chỉ có tâm bồ đề bền vững mới có đủ sức chịu đựng, vượt qua được những tác động của hoàn cảnh, môi trường thuận nghịch bên ngoài, cũng như những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, cám dỗ của năm dục, sáu trần. Khi tâm chúng ta đạt được cảnh giới như như bất động, vô tâm trước cảnh, một niệm không sinh, tâm thanh tịnh đến tịch diệt, là sự nhẫn nhục tốt nhất và chúng ta có được chân thật lợi ích hiểu biết trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báu.
4. Tinh tấn, là sự tập trung tinh thần, tâm trí cao độ, liên tục, bền bỉ, dũng mãnh, chủ động, tích cực, tự giác vào một đối tượng sự vật, sự việc, hiện tượng nào đó trong vũ trụ nhân sinh này, để hoàn thành một tâm nguyện, mục đích nào đó, thì được xem là tinh tấn. Tinh tấn là việc khi chúng ta làm bất cứ sự vật, sự việc, hiện tượng gì, mà để toàn tâm, toàn trí vào sự việc, sự vật, hiện tượng đó, thì không có việc gì mà không làm song, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói, “không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên”. Điều đó thể hiện rõ ràng, minh bạch, là tất cả những công việc cho dù khó khăn vất vả đến đâu đi nữa, nhưng chúng ta quyết chí thì đều thành công. Chúng ta thấy việc khó khăn, là do chúng ta không có quyết tâm, không kiên định mục tiêu ý tưởng, không cố gắng bền bỉ vượt qua khó khăn. Như vây, chúng ta khẳng định không có việc gì khó, mà khó do chính chúng ta không quyết tâm, bền bỉ, kiên định, bất thoái, không lay chuyển trước mọi hoàn cảnh môi trường thuận nghịch, giữ gìn tâm chúng ta luôn được thanh tịnh đến tịch diệt, như như bất động, trước ngoại cảnh ô nhiễm, thì đó là thành công viên mãn. Như vậy việc của chúng ta, là việc tự giác học Phật tu pháp viên thành Phật đạo, là một việc khó nhưng cho dù khó đến đâu, thì chúng ta cần tinh tấn, tự giác học Phật, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, định ở một pháp môn, huân tu dài lâu, kiên định, vững bền, thì nhất định chúng ta thành công, phát được tâm bồ đề, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Chúng ta tu hành theo pháp môn nào, thì phải kiên định mục tiêu tinh tấn tu hành pháp môn đó, cho đến hơi thở cuối cùng. Ví như chúng ta tu hành pháp môn Tịnh Độ tông, là pháp môn niệm Phật, niệm sáu chữ hồng danh “Nam mô A di đà Phật”, thì chúng ta kiên định pháp môn huân tu liên tục tinh tấn dài lâu đến hơi thở cuối cùng, thì nhất định thành công viên mãn viên thành Phật đạo. Chúng ta kiên định tu hành pháp môn đời này, kiếp này, mà đời đời kiếp kiếp vẫn tu học theo pháp môn Tịnh Độ tông, tức là tận hình thọ tu học pháp môn, niệm sáu chữ hay bốn chữ hồng danh “A di đà Phật”, chúng ta có được sự tinh tấn như vậy, thì không có việc khó, trở ngại nào, mà chúng ta không vượt qua, đi đến đích thành công viên mãn, đạo lý “niệm Phật thành Phật”, niệm Phật là nhân, thành Phật là quả.
5. Thiền định, là trạng thái tâm hiền hoà, dung hợp, ổn định, yên tĩnh, vẵng lặng, kiên cố, vững bền, thanh tịnh đến định tịch diệt, như như bất động, một niệm không sinh, vô tâm trước cảnh, minh tâm kiến tính thành Phật. Chúng ta cần có phương pháp để tu tập thiền định, như việc Thiền quán tất cả những sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, đều là giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, hoặc là không có thật, hay chúng ta Thiền quán tất cả các pháp đều là không, đều là do nhân duyên sinh, đều là pháp phương tiện thiện xảo, để giúp chúng sinh thâm nhập vào ba đại tạng kinh, mười hai giáo, và khôi phục được chân tâm, trí tuệ Phật. Thiền định cũng là sự hiểu thấu tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian, để từ đó lựa chọn cho chúng ta những phương pháp tốt nhất, để buông bỏ những giả tướng, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, hiểu thấu được thật tướng của tất cả các pháp, được minh tâm kiến tính thành Phật Như Lai.
6. Trí tuệ, còn gọi là bát nhã hay được phân ra thành bốn cảnh giới, trí tuệ phương tiện, trí tuệ nguyện, trí tuệ lực, trí tuệ trí, đây là bốn cảnh giới nguyên nhân thành đạt của sự hiểu biết trí tuệ, bát nhã cao đẳng. 
Trí tuệ phương tiện, là chúng ta khi đã hiểu thấu được Phật pháp, biết được thật tướng của các pháp, đều là giả tạm hoặc là không có thật, vạn pháp đều không, đều là pháp phương tiện thiện xảo. Từ đó sinh tâm giúp đỡ, thương sót bình đẳng mọi người, bằng trí tuệ hiểu biết của mình, cũng như có được bồ đề tâm bền vững là cội nguồn sinh ra các thiện pháp, hiểu được mọi người đang cần pháp phương tiện thiện xảo nào, để phù hợp với căn cơ, trình độ, hiểu biết trí tuệ của từng người, thì chúng ta ban tặng, cúng dường Phật pháp tương ứng. Để mang lại chân thật lợi ích hiểu biết trí tuệ, công đức, phước báu nhiều nhất cho mọi người. 
Trí tuệ nguyện do việc hiểu thấu Phật pháp, tu hành các công đức và hành nguyện bồ tát nghiệp mà có được trí tuệ nguyện, giống như việc chúng ta phát lời thề nguyện rộng khắp như “Tứ hoằng thề nguyện”, và bốn tám đại nguyện của đức Phật A di đà. Chúng ta muốn chịu tất cả những nỗi khổ đau, phiền não, tội lỗi xấu tà ác cực trọng thay cho tất cả mọi người, và giúp đỡ, thương sót bình đẳng mọi người cho dù phải hy sinh tất cả những gì mình có được, như tính mạng, của cải, vật chất, tinh thần và tình cảm, sự nghiệp cá nhân. Để mạng lại chân thật lợi ích hiểu biết trí tuệ, công đức, phước báu, cho tất cả mọi người, mọi chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, có được cuộc sống trí tuệ cao đẳng, tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên. Chúng ta khi hoàn thành lời thề nguyện được viên mãn công đức và trí tuệ vô lượng vô biên, thì đó chính là trí tuệ nguyện. 
Chúng ta tinh tấn tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ được tất cả những giả tướng, tập tính xấu tà ác, thì chúng ta đã chuyển được nghiệp sang nguyện. Tức là chúng ta có mặt ở thế gian này là do quy luật mười hai nhân duyên mà tạo thành quả báo, có được thân người, để trả nghiệp cũ đã tạo nhân duyên trong sáu cõi luân hồi, được làm thân con người. Nhưng đến nay chúng ta đã hiểu thấu được điều đó rồi, thì chúng ta nên chuyển nghiệp thành nguyện, nguyện của chư Phật Như Lai, chư Bồ tát, là nguyện phát được bồ đề tâm bền vững, được minh tâm kiến tính thành Phật. Chúng ta biết đức Phật A di đà với bốn tám đại nguyện để sáng lập thế giới Tây phương cực lạc, trải qua một thời gian dài nhiều đời, nhiều kiếp, tu hành các công đức, và bốn tám đại nguyện được chân thật chứng ngộ chính giác viên mãn viên thành Phật đạo. 
Bốn tám đại nguyện của đức Phật A di đà, vì chúng ta, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, mà phát nguyện sáng lập thế giới Tây phương cực lạc, để mang lại lợi ích hiểu biết trí tuệ, công đức, phước báu nhiều nhất, để bình đẳng tiếp dẫn chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, có đủ điều kiện, là có tâm bồ đề bền vững và trí thành tha thiết cầu nguyện được vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc sẽ được như nguyện, tu hành viên mãn thành chư Phật Như Lai. 
Trí tuệ lực, có được từ việc hiểu thấu Phật pháp và buông bỏ những giả tướng, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, tu hành các công đức, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật, có đầy đủ “thể dụng”, toàn tri, đức năng, giới thiệu Phật pháp cho mọi người và biết được nhân duyên quả báo của từng chúng sinh qua nhiều đời, nhiều kiếp, quá khứ vô cùng, hiện tại và tương lai vô tận. Tất cả đều biết rõ ràng, minh bạch, biết được tất cả suy nghĩ, lời nói, việc làm, căn cơ, trình độ, hiểu biết trí tuệ của từng chúng sinh. 
Chư Phật Như Lai chỉ độ những người có nhân duyên với Phật Như Lai, còn những người chưa có nhân duyên thì chưa được độ, vì những gì Phật Như Lai dạy bảo, truyền đạo, giới thiệu Phật pháp cho bạn, mà bạn chưa tin, không nghe, không làm theo, thì chư Phật Như Lai cũng đành chịu. Nhưng cho dù chỉ có chút ít lợi ích trí tuệ, công đức, thì chư Phật Như Lai nhất định bình đẳng giúp đỡ bạn, cho dù bạn ở bất kỳ cảnh giới của pháp giới nào. Nhưng bạn lại có nhân duyên với người khác, những bậc thiện tri thức, người dẫn đạo có nhân duyên với bạn. Chính vì vậy, chúng ta cần phải tinh tấn tự giác học Phật tu pháp, có đủ đức năng để giúp đỡ những người có nhân duyên với chúng ta, thì chúng ta truyền đạo, giới thiệu Phật pháp cho họ có được niềm tin, lợi ích hiểu biết trí tuệ, công đức vô lượng vô biên, cùng chúng ta tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật.
Trí tuệ trí là trí tuệ bao trùm khắp không gian và thời gian, là trí tuệ giống như ánh sáng vô lượng toả sáng khắp nơi nơi, không nơi nào là không có, không có chướng ngại, vô ngại, vô bờ mé, biết được tất cả các việc xẩy ra trong quá khứ từ vô thỉ kiếp đến nay, và những việc sẽ sẩy ra ở tương lai vô tận, không có giới hạn bờ mé, biết được tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, cũng như mười phương ba đời chư Phật Như Lai, tất cả đều hiểu thấu, minh bạch, đại triệt đại ngộ, không thể nghĩ bàn. Chư Phật Như Lai chứng ngộ tâm vô thượng chính đẳng chính giác, có trí tuệ vô hạn lượng, có được thể dụng, thông đạt, thần thông, vạn đức, vạn năng, không có gì là không biết, không có gì mà không làm được viên mãn nhất. 
Đức Phật nói với một đệ tử, về việc so sánh giữa sự hiểu biết trí tuệ cao đẳng thật sự của chư Phật Như Lai, giống như lá ở trong một khu rừng, còn những giáo lý giác ngộ mà đức Bổn sư Thích Ca Mô Ni Phật giảng nói trong suốt bốn chín năm giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, với ba đại tạng kinh, mười hai giáo, đã nói ra vô lượng vô biên giáo lý làm pháp phương tiện thiện xảo để giúp ích cho chúng ta, cũng như cho tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, có được sự giác ngộ chính giác, thật sự được giải thoát sinh tử luân hồi trong sáu cõi, ba đường ác, nhưng tất cả giáo lý giác ngộ đó chỉ ít bằng nắm lá trên tay của một vị đệ tử đang cầm trên tay, còn sự hiểu biết trí tuệ cao đẳng thật sự của tất cả mười phương ba đời chư Phật Như Lai giống như lá của cả khu rừng, nhưng trí tuệ đó không có tác dụng đối với việc tu hành giải thoát của chúng ta, cũng như tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, không thể diễn tả bằng lời nói, văn tự.
 
 
 
 
Phần VI.Phổ hiền hạnh nguyện
 
Mười đại nguyện vương của Bồ tát Phổ Hiền quy về cầu nguyện được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, tu hành viên mãn thành Phật Như Lai. 
1. Lễ kính chư Phật Như Lai cúng dường.
2. Xưng tán chư Phật Như Lai cúng dường.
3. Cúng dường chư Phật Như Lai.
4. Sám hối nghiệp chướng cúng dường chư Phật Như Lai.
5. Tuỳ hỷ công đức cúng dường chư Phật Như Lai.
6. Thỉnh chuyển pháp luân cúng dường chư Phật Như Lai.
7. Thỉnh chư Phật Như Lai trụ thế cúng dường.
8. Thường tuỳ tự giác học Phật Như Lai cúng dường.
9. Hằng thuận chúng sinh cúng dường chư Phật Như Lai.
10. Phổ giai hồi hướng cúng dường chư Phật Như Lai.
Phổ Hiền hạnh nguyện là bao gồm tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, bao gồm tất cả chư Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn, cõi Trời, Người, A tu la, Súc sinh, Ngạ quỷ, Địa ngục, cũng đều tu đạo Phổ Hiền hạnh nguyện, ai không tu đạo Phổ Hiền hạnh nguyện, thì không đạt đến viên mãn viên thành Phật đạo. Đây là tu viên mãn tính, thành viên mãn Phật Như Lai, tức là tu hành các công đức với mười đại nguyện vương của Bồ tát Phổ Hiền, đạt đến mức độ hiểu biết trí tuệ cao đẳng, thực sự “tín giải hành chứng” được giáo lý viên mãn nhất, được giải thoát khỏi sinh tử luân hồi trong sáu cõi ba đường ác, được minh tâm kiến tính thành chư Phật Như Lai.
Thế giới Tây phương cực lạc tất thảy đều có tâm thanh tịnh đến tịch diệt, và có vị đại sư A di đà Phật, bình đẳng tiếp nhận mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, đều tu đạo Phổ Hiền hạnh nguyện. Điều này nói rõ ràng, minh bạch, thế giới Tây phương cực lạc là cảnh giới của Bồ tát Phổ Hiền, chúng ta tu hành mười đại nguyện vương đạt đến viên mãn đức tính thành chư Phật Như Lai. Chúng ta bao gồm chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, học Phật tu pháp, đạt được tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, giác ngộ hiểu biết trí tuệ, từ bi bác ái, bao dung độ lượng, để tu đạo Phổ Hiền hạnh nguyện đạt đến viên mãn tính, thành viên mãn Phật. 
Điều 1: Lễ kính chư phật như lai cúng dường
Đây là tính đức quan trọng nhất trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta đối với mọi người, sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, cần phải có lễ, lễ bao gồm có lễ tiết và lễ kính.
1. Lễ tiết là trong cuộc sống hằng ngày chúng ta đối mọi người, sự vật, sự việc, hiện tượng, cần phải có lễ tiết, lễ giáo, phù hợp với phong tục tập quán, văn hoá của từng vùng miền, tôn giáo, đảng phái, giai cấp, quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới. Tức là nhập gia thì phải tuỳ tục lệ nơi đó, phải đúng pháp thế gian, Phật pháp, không được quá trớn, cũng không được bất cập, không được thoái quá, cũng không coi thường, làm sao cho vừa vặn, vừa đủ thích hợp, phù hợp với hoàn cảnh điều kiện tự nhiên, đúng đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới chúng sinh. Để giữ gìn sự đoàn kết, hoà hợp, phát triển bình đẳng cùng có lợi ích hiểu biết trí tuệ, công đức, phước báu vô lượng vô biên cho chúng ta. 
Chúng ta trong thực tế thường gặp tượng của chư Phật Như Lai, chư Bồ tát chúng ta tam quỳ, tam khấu đầu, còn chúng ta gặp thần thánh, quan thổ địa và chúng sinh, thì chúng ta xá chào, nhưng cái tâm chân thành cung kính, trí thành lễ kính, thì như nhau, không có gì khác biệt đối với chư Phật Như Lai. Người thời nay khi gặp nhau là bắt tay nhau, gật đầu, chúng ta cũng bắt tay, gật đầu. Ví như tôi rất cung kính chư Phật Như Lai, chư Bồ tát, muốn lễ lậy nhiều hơn ba cái có được không, thưa không được. Vậy tôi cung kính trong lòng là được rồi, hà tất phải hình thức, tôi lễ lậy một cái có được không, thưa không được. Chúng ta tự giác tu học lễ kính chư Phật Như Lai, cần phải thể hiện được tâm lễ kính và thân, khẩu, ý nghiệp bên ngoài phải phù hợp với từng hoàn cảnh và có chuẩn mực giới luật, lễ tiết. 
 2. Lễ kính là dùng tâm chân thành, trí thành, tối cung kính, để tu lễ kính chư Phật Như Lai cúng dường. Thân, khẩu, ý nghiệp phải thể hiện một cách bình đẳng lễ kính đối với mọi người, sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, cũng như tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới và lễ kính mười phương ba đời chư Phật Như Lai, là bình đẳng như nhau, không phân biệt, vọng tưởng, chấp trước, không có gì khác biệt. Tức là phong cách, lời nói, suy nghĩ, việc làm bên ngoài phải phù hợp chuẩn mực quy định của lễ tiết, bên trong tâm thì chân thành cung kính, lễ kính bình đẳng tất cả mọi người, chúng sinh như là lễ kính đối với chư Phật Như Lai. 
Chúng ta có một phần trí thành cung kính, lễ kính chư Phật Như Lai, thì chúng ta có được một phần lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, trong đời sống có được tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. Chúng ta có một phần thành kính thì được Phật lực gia trì, giúp đỡ, ban tặng một phần lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, còn chúng ta có mười phần thành kính thì được chư Phật Như Lai gia trì, giúp đỡ, ban tặng mười phần lợi ích hiểu biết trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báu, được hưởng cuộc sống trí tuệ cao đẳng, tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững, tu hành các công đức viên mã viên thành Phật đạo.
Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta thấy được người chân thành, thật thà, thành thật, chân thật, hiền lành, khiêm tốn, giản dị, tiết kiệm, không dối người dối mình, thì cũng được chư Phật Như Lai gia trì, giúp đỡ, thương sót, có được ánh sáng quang minh của chư Phật Như Lai chiếu vào, người đó có được hưởng sự tự do, ấm no, hạnh phúc, ung dung, tự tại, bình yên bền vững, có cuộc sống công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng. Trong ánh sáng quang minh của đức Phật Thế Tôn năm xưa, có một phần ánh sáng quang minh để cúng dường cho đệ tử Phật đời sau, trong đó có đủ mọi thứ như là thực phẩm, y phục, y dược và nhiều điều lợi ích công đức, phước đức, hiểu biết trí tuệ cao đẳng. Điều này khẳng định chắc chắn khi bốn chúng đệ tử Phật, chúng ta y giáo phụng hành, thì không phải cần phang duyên bất cứ một ai, quyết định cả đời bạn sẽ không bị thiếu bất cứ thứ gì cần thiết, không bao giờ cần lo lắng, đói lạnh, bệnh tật, phiền não, khổ đau, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác. Ngược lại bạn được hưởng chân thật lợi ích trí tuệ, công đức, phước báu, có được cuộc sống trí tuệ cao đẳng, sự ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững, phát được tâm bồ đề, cả cuộc đời của bạn được chư Phật Như Lai an bài, thương sót, giúp đỡ. Tất cả mọi thứ bạn cần có trong cuộc sống, cũng như để giúp đỡ và làm Phật sự hoằng pháp lợi sinh cho mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, thì đều được thoả mãn đầy đủ, không thể nghĩ bàn. 
Đối tượng lễ kính của chúng ta là Bổn sư Thích Ca Mô Ni Phật, đức Phật A di đà và tất cả mười phương ba đời chư Phật Như Lai, bao gồm quá khứ Phật, hiện tại Phật, tương lai Phật. Hiện tại Phật là tất cả chư Phật Như Lai đang ở thế giới Tây phương cực lạc và thế giới Lưu ly Đông phương, Bắc phương, Nam phương, Thượng phương, Hạ phương. Quá khứ Phật là các vị cổ Phật, và vị lai Phật là tất cả chúng ta, nhân loại trên toàn thế giới, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, đều là Phật vị lai, vì đều có cùng Phật tính. Chúng ta làm được như vậy mới được hiểu đúng là đang tu đạo Phổ Hiền hạnh nguyện để viên mãn viên thành Phật đạo. 
Chúng ta thường phải tu lễ kính chư Phật Như Lai, là chúng ta chú trọng là chữ “thường” tu lễ kính, tức là phải tu lễ kính hằng ngày, hằng phút, hằng giây, lúc nào cũng giữ tâm chân thành, trí thành cung kính, lễ kính chư Phật Như Lai, không có gián đoạn, luôn giữ tâm biết ơn đền ơn. Chúng ta phải tận hình thọ tu lễ kính chư Phật Như Lai, tức là chúng ta còn sống trên đời ngày nào, giờ nào, phút nào, giây nào, thì chúng ta đều phải tu lễ kính chư Phật Như Lai ngày, giờ, phút, giây đó. Chúng ta tu lễ kính chư Phật Như Lai liên tục, không gián đoạn đến hết thời gian thọ mạng, đến hơi thở cuối cùng trong cuộc đời này của chúng ta. 
Bồ tát Phổ Hiền là tận hình thọ liên tục, không gián đoạn tu lễ kính chư Phật Như Lai, đời đời kiếp kiếp, không ngừng nghỉ, không mỏi mệt, không phiền chán. Vì sao Bồ tát tu đạo với sự quyết tâm tinh tấn, rốt ráo hơn chúng ta, không thấy nhàm chán, mỏi mệt, còn chúng ta thì thấy nhàm chán, mỏi mệt, đó là Bồ tát dùng chân tâm để tu đạo Phổ Hiền. Tức là Bồ tát dùng tâm thanh tịnh tịch diệt để tu lễ kính chư Phật Như Lai và tu lục độ vạn hạnh, cho nên không thấy nhàm chán, mỏi mệt, thực sự mang lại công đức, trí tuệ, viên mãn thành đạt vô lượng vô biên, đạt đến viên mãn đức tính chính thiện, thành viên mãn Phật Như Lai. Còn chúng ta học Phật tu pháp, thì lại nhanh thấy nhàm chán, mỏi mệt, vì đó là vọng tâm, không phải chân tâm, không phải thanh tịnh tâm, vậy thì tâm chúng ta chưa đạt đến tâm thanh tịnh tịch diệt, thì cũng phải tinh tấn tự giác học Phật tu pháp, để có được tâm thanh tịnh để tu lễ kính chư Phật Như Lai cúng dường, và chúng ta phải hiểu thấu Phật pháp, tu hành các công đức, tín giải hành chứng bằng được mười đại nguyện vương của Bồ tát Phổ Hiền, đây là phương pháp tốt nhất để tu đạo Phổ Hiền hạnh nguyện mới viên thành Phật đạo, mới có đủ điều kiện được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, tham dự pháp hội của đức Phật A di đà, vào được biển nguyện di đà, đạt được cảnh giới vô trụ Niết bàn, tu hành viên mãn thành chư Phật Như Lai.
Chúng ta phải học Phật tu pháp, để có được tâm bồ đề bền vững, chúng ta có thể học bất cứ pháp môn nào, ngoài pháp môn Tịnh Độ tông, Mật tông hoặc pháp môn Thiền tông (thiền định, thiền chỉ, thiền quán, thiền minh sát tuệ), Luật tông, Thiên Thai tông, Tam Luận tông, Hoa Nghiêm tông, Thành Thật tông, Câu Xá tông, Pháp Tướng tông, pháp môn Trì Chú cũng được. Mục đích đạt được tâm thanh tịnh đến tịch diệt, để có đủ điều kiện tu đạo Phổ Hiền hạnh nguyện, đạt đến viên mãn đức tính thành viên mãn Phật Như Lai. Pháp môn Tịnh Độ tông lấy trì danh niệm Phật “Nam mô A di đà Phật”, làm tổng cương lĩnh của pháp môn, việc học kinh giáo là hỗ trợ, còn có hay không thì đều tốt, không cần đến bất cứ pháp môn nào khác, chỉ cần chúng ta tự giác chân thật niệm Phật, “trì danh niệm Phật”, là đạt đến công phu niệm Phật thành khối, lý nhất tâm bất loạn, “niệm mà không niệm, không niệm mà niệm, niệm cùng không niệm là một, không hai”, biến hữu niệm nhập vào vô niệm, “ngoài không động tâm trong không chấp tướng”. Bồ tát Đại Thế Chí niệm Phật viên thông chương, dạy chúng ta cách niệm Phật “tịnh niệm liên tục, nhiếp hết sáu căn”, chỉ một câu Phật hiệu “Nam mô A di đà Phật”, niệm đến hơi thở cuối cùng, niệm Phật liên tục, không gián đoạn, đời đời kiếp kiếp không bao giờ ngừng dứt, không nhàm chán, không mệt mỏi, niệm đến khi thành chư Phật Như Lai.
Niệm Phật tam muội, trong khoảng thời gian chín mươi ngày, liên tục, không ngừng nghỉ, không gián đoạn, đây là cảnh giới sự lý là một, không hai, “một niệm không sinh”, tâm như như bất động, trước mọi hoàn cảnh, môi trường bên ngoài. Tức là cảnh giới tâm có “Giới Định Huệ” rất sâu, đến mức tâm thanh tịnh đến tịch diệt. Cảnh giới này là bất sinh bất diệt, được vào đạo tràng A di đà nguyện hải, hay còn gọi là biển nguyện A di dà Phật, vào được pháp giới nhất chân, bất thoái, viên mãn thành viên mãn Phật Như Lai. Công phu niệm Phật thành khối, thì được đới nghiệp vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, tức là bạn chưa diệt trừ hết được phiền não, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, nhưng bạn đã hàng phục, đè phục nó, không cho nó khởi tác dụng, không cho nó phát triển thêm, “không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”, thì bạn có được điều kiện hạ hạ phẩm vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc. Tức là được đới nghiệp vãng sinh, bạn được mang theo nghiệp cũ, còn nghiệp mới thì không thể đem theo được. Đức Phật Như Lai dạy chúng ta phải liên tục, không gián đoạn “niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, niệm thí, niệm giới, niệm thiên” để tạo thượng nhân duyên, thiện căn, phước đức, công đức, hiểu biết trí tuệ cao đẳng vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn.
Điều 2: Xưng Tán Chư Phật Như  Lai Cúng dường  
Chúng ta thường gọi chư Phật Như Lai, là từ trên đức tính mà gọi bằng Như Lai, còn chúng ta từ trên đức tướng mà gọi bằng Phật. Đức tướng và đức tính là một, không hai, Phật và Như Lai cũng là một, không hai. Chúng ta hiểu thấu vị lai Phật, đều là tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, chúng sinh theo nghĩa rộng bao gồm tất cả Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn, cõi Trời, Người, A tu la, Súc sinh, Ngạ quỷ, Địa ngục, thực vật, khoáng vật, đều là chư Phật Như Lai trong tương lai. Nhưng hiện tại thì chưa thành Phật Như Lai, mà là chúng sinh trong lục đạo luân hồi, mười pháp giới, tận hư không khắp các pháp giới. 
Xưng tán chư Phật Như Lai, là từ trên tính đức, tướng đức mà nói, tất cả những tính đức, tướng đức của mọi người, nhân loại trên thế giới, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới mà tương ứng với chân như bổn tính, tương ứng với tính đức, tướng đức, dải hạnh nguyện chính thiện, chính pháp trong Phật pháp, thì chúng ta xưng tán, chúc mừng họ. Nhờ sự xưng tán, chúc mừng, ban thưởng, giúp đỡ đó, để thành đạt hoàn thiện cái chính thiện, cái tốt của họ, mà làm thay đổi toàn bộ cuộc sống vốn có của họ, trở thành tốt đẹp, thành đạt viên mãn. Tức là giúp đỡ họ nhận ra khuyết điểm, tội lỗi, sai trái, để họ sửa chữa, thay đổi, tự làm mới tất cả những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác đó, sao cho tương ứng với chính đức tính chính thiện của chư Phật Như Lai. Chúng ta phải hiểu rõ đạo lý, nguyên tắc, phương pháp này, mà y giáo phụng hành, tự giác học tập tu hành, tâm của chúng ta thường giữ mặt chính thiện của mọi người, lời nói của chúng ta luôn tán thán mặt chính thiện của tất cả chúng sinh, suy nghĩ của chúng ta thường nghĩ đến mặt tốt, mặt chính thiện của tất cả chúng sinh, việc làm của chúng ta cũng là làm việc chính thiện. Như vậy, thân, khẩu, ý nghiệp của chúng ta chính thiện, tâm thiện, cho nên thân tướng của chúng ta cũng chính thiện, toả sáng, cho đến viên mãn tướng tốt đẹp nhất thành tướng của Phật Như Lai, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, đó chính là đại phước đức, công đức của chúng ta. Còn ngược lại tâm chúng ta bất tịnh xấu tà ác, thì tâm, ý, khẩu nghiệp, thân tướng cũng xấu tà ác, đáng thương xót vô cùng. 
Chúng ta tự hỏi những gì tương ứng với đức tính chính thiện, thì chúng ta tán thán, còn những gì bất thiện chúng ta không được tán thán họ, nhưng cái tâm lễ kính không có gì khác biệt với lễ kính chư Phật Như Lai. Vì tất cả mọi người, chúng sinh chính thiện hay xấu tà ác, cũng đều có Phật tính và đều được thành chư Phật Như Lai trong tương lai. Xưng tán chư Phật Như Lai là điều rất quan trọng cần thiết, chúng ta nên thường xuyên xưng tán chư Phật Như Lai, vì đây là một nhân duyên vô cùng tốt đẹp, vô cùng quan trọng, nó quyết định đến sự giác ngộ chính giác, tin Phật, học Phật tu pháp, niệm Phật thành Phật.
Thế gian ngay nay người ta tán thán cái xấu tà ác, cái giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, nhiều hơn là tán thán cái chân thật, chính thiện, đúng chính pháp trong Phật giáo. Chúng ta tán thán những việc đúng với pháp luật thế gian, và đúng với giới luật trong Phật pháp, vì lợi ích hiểu biết trí tuệ, công đức của tất cả mọi người. Xã hội ngày nay bị hư hại như thế này, là trách nhiệm, tội lỗi của bốn chúng đệ tử Phật chúng ta, cũng như các bậc thiện tri thức trong xã hội. Chúng ta phải tinh tấn, rốt ráo học Phật tu pháp, y giáo phụng hành, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật, để có sự toàn tri giúp ích cho mọi người bình đẳng được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật Như Lai. 
Phật pháp là nền văn hoá giáo dục trí tuệ cao đẳng, chí thiện, chí công vô tư, giúp ích cho mọi người có được chân thật lợi ích, trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báu, ngay trong thực tế đời sống hằng ngày của mỗi chúng ta, giúp ích cho sự nghiệp của bạn thành đạt, gia đình hạnh phúc, bình yên bền vững, xã hội ổn định phồn vinh, quốc gia, dân tộc giầu mạnh, thế giới hoà bình, hợp tác, phát triển bình đẳng cùng có lợi. Chúng ta phải gương mẫu làm tấm gương tốt nhất, cho đại chúng xem thấy, tin ưa, tự giác học tập làm theo chúng ta. Tức là phải làm đến được, người thế gian bất hiếu, chúng ta phải tận hiếu, người thế gian bất nghĩa, chúng ta phải nghĩa khí, người thế gian bất trung, tín chúng ta phải tâm trung tín, người thế gian tán thán những cái xấu tà ác, còn chúng ta phải tán thán tất cả những đức tính chính thiện trong Phật giáo. Người thế gian nói chuyện lợi hại, được mất, lấy bỏ, thiệt hơn, tốt xấu, thiện ác lẫn lộn, còn chúng ta nói đạo lý nhân quả, nguyện tắc, phương pháp, cảnh giới chính thiện, trung đạo, lễ kính, làm thay đổi vận khí, chuyển những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, thành thanh tịnh tốt đẹp.
Điều 3: Quản tu cúng dường chư Phật như lai
Lục độ là bao gồm cúng dường, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Nhưng tất cả lục độ cũng được đều quy về việc bố thí, cúng dường chư Phật Như Lai, cũng là vạn hạnh của các vị Bồ tát thường tu hành. Cúng dường chư Phật Như Lai có ba loại là cúng dường tài bảo, pháp, vô uý. Trong Phổ Hiền hạnh nguyện không gọi là bố thí, mà tất cả đều bình đẳng như nhau, đều gọi là cúng dường, bằng cái tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, từ bi bác ái, bao dung độ lượng, tâm trí thành, tối cung kính, để tu hạnh cúng dường chư Phật Như Lai, mới có đầy đủ công đức, phước báu vô lượng vô biên, trong đó cúng dường pháp bao gồm cả hai loại trên.
1. Cúng dường tài bảo, là sự cúng dường giúp đỡ mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, bằng tài bảo, phương tiện, vận dụng, vật chất, công sức của mình, dùng để cúng dường cho tất cả chúng sinh cần giúp đỡ, những người nghèo khổ, khó khăn, bất hạnh, một cách không điều kiện, tự giác, tự nhiên. Quả báo đạt được nhiều tài bảo, phước báu, công đức, thành đạt ở ngay hiện tại và tương lai kiếp sau. Nếu chúng ta tu hạnh cúng dường này một cách tinh tấn, rốt ráo, tự giác bằng cái tâm trí thành cung kính cúng dường chư Phật Như Lai, thì quả báo thù thắng không cần đợi đến đời sau, mà ngay đời này bạn được hưởng công đức, phước báu, vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn. Trong cuộc sống hiện nay có rất nhiều cách cúng dường tài bảo cho mọi người, chúng sinh, đó là việc chịu khổ thay cho mọi người, bằng cách đem đời sống vật chất, công sức, giúp đỡ những người nghèo khổ, không điều kiện, cũng như chi tiêu hằng ngày của chúng ta, hạ thấp xuống một bậc. Chúng ta đem tất cả số tài bảo tiết kiệm được đó, cúng dường cho mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, giúp họ lìa khổ được vui, như vậy chính là việc thay chúng sinh chịu khổ, phước báo là tài bảo vô lượng vô biên, lợi ích mà bạn được hưởng gấp rất nhiều lần, có được đại phước báu vô lượng vô biên.
Chúng ta cần hiểu thấu đáo việc cúng dường tài bảo để phá tâm tham, tham danh vọng lợi dưỡng, vinh hoa phú quý, tài, sắc, danh, thực, thuỳ, tất cả những thứ đó đều là giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, chúng ta không lên bị vướng mắc vào những thứ giả tướng đó, mà phải làm chủ nó, chúng ta tu cúng dường tài bảo, để được nhiều tài bảo, nhưng không phải là để cho chúng ta hưởng, chúng ta chỉ nên hưởng cuộc sống khiêm tốn, giản dị, tiết kiệm, trung đạo, tự do, tự tại, tuỳ duyên, bình yên bền vững, còn tất cả lợi ích là để cho chúng sinh được hưởng, vì lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ của xã hội, nhân loại trên toàn thế giới, và tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới. 
Khi chúng ta hiểu thấu việc cúng dường tài bảo, cũng giống như sự buông bỏ những giả tướng, những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, để đạt được cuộc sống hiểu biết trí tuệ cao đẳng, tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. Bạn tự hỏi chính mình cả đời này vì ai, mà chúng ta phải khổ đau, phiền não. Thực ra chỉ vì bát cơm manh áo, chỉ vì muốn đạt được đời sống vinh hoa phú quý, danh vọng lợi dưỡng, có tài, sắc, danh, thực, thuỳ, để thoả mãn hưởng thụ cho bản thân mình, thoả mãn cái tôi ích kỷ keo kiệt, tự tư tự lợi, ghen ghét đố kỵ, tự cao tự đại. Tất cả những thứ đó đều là giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng hoặc là không có thật, chỉ là cảm giác tức thời, bạn cùng lắm chỉ được hưởng thụ thoả mãn cái tôi mấy mươi năm là cùng, còn đến khi bạn hết thời gian thọ mạng, bị chết đi có mang theo được thứ gì đâu, chỉ có nghiệp báo thiện ác theo bạn, thật đáng thương xót vô cùng.
Thế gian cho rằng “người không vì mình, thì trời chu đất diệt”, cái này không sai nhưng người mà vì mình, thì đúng là con người, vẫn phải luân hồi trong sáu cõi, ba đường ác, kiếp sau bạn được thân người, nhưng có phước hưởng phước, tạo tội lỗi nghiệp chướng xấu tà ác, thì phước báo hết rất nhanh. Bạn có phước thì phải biết tu phước, thì phước báu đó mới bền, mới được lợi ích thù thắng bền vững. Chúng ta tự giác học Phật tu pháp, biết được phước báu, công đức, hiểu biết trí tuệ cao đẳng từ đâu mà có, biết được quy luật nhân quả, đời trước bạn tu phước, đời này hưởng hết phước, đời sau đọa lạc, chịu nhiều khổ đau cùng cực. 
Đức Phật nói, “chúng sinh trong diêm phù đề khởi tâm đọc niệm, niệm nào cũng là tội lỗi”, chúng sinh diêm phù đề chính là vũ trụ nhân sinh của chúng ta ngày nay đang sinh sống, vì bạn chấp trước vào cái thân thể của bạn và những cái của bạn sở hữu, đó đều là giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, hoặc là không có thật, hữu hạn, bạn chấp vào cái giả tướng này, mà cho là thật, cái thật chính là chân tâm, Phật tính, trí tuệ Phật. Bản thể của chúng ta vốn là bất sinh bất diệt, tức là vô lượng thọ Phật, do bị mê mất mới tưởng lầm thân thể của chúng ta và vũ trụ nhân sinh này là thật. Khi chúng ta hiểu thấu điều này, thì buông bỏ tất cả không nên có tâm vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, thân tâm của chúng ta như hư không, không vướng mắc vào bất cứ thứ gì trên thế gian này, từng giờ, từng phút, từng giây, tận hình thọ cầu nguyện được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, tu hành viên mãn thành chư Phật Như Lai. 
Đại chúng hiện nay nghe thấy việc bố thí, cúng dường, lại hiểu lầm là phải mất tiền của, vật chất, tài bảo, công sức, thời gian của mình, mà chúng ta đã khó nhọc, vất vả, mới tích luỹ được tiền tài, của cải, vật chất, tinh thần, mà lại mang bố thí, cúng dường hết cho người khác, thì lại tiếc. Vì khi đem hết tất cả tài bảo, tài sản có được của chúng ta bố thí, cúng dường hết, thì ngày tháng còn lại của chúng ta, thì dựa vào cái gì mà sinh sống. Xin thưa với các bạn, cái này là bạn chưa hiểu thấu đạo lý nhân quả, phương pháp, cảnh giới trong kinh Phật dạy chúng ta, là “nhân duyên quả báo chân thật bất hư không sót mẩy trần”. Chúng ta nên yên tâm, tiền của, tài bảo mà chúng ta phát tâm bố thí, cúng dường hết, cho tất cả mọi người khổ đau, nghèo khó, ốm đau, bệnh tật, hoạ hoạn, và tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, được hưởng lợi ích rồi, thì chúng ta sẽ không bao giờ bị đói lạnh, thiếu thốn, ốm đau, bệnh tật nữa. Vì tất cả các tướng đều là do tâm tưởng sinh, khi bạn không nghĩ đến ốm đau, bệnh tật, thì nhất định bệnh tật cũng không bao giờ tìm đến bạn. Đây là chúng ta đã làm việc mang lại cho chúng ta công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ nhiều vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn. 
Nhưng cũng có cách tốt nhất giúp chúng ta tu hạnh bố thí, cúng dường, đó là phương pháp quán tưởng luyện tâm, trải sự luyện tâm, để buông bỏ tất cả giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, mọi thứ trong vũ trụ nhân sinh này. Để phá tâm tham đắm những vật chất, tài bảo, của cải của chúng ta, đó là chúng ta quán tưởng tất cả vật chất, tài bảo của chúng ta có được, như danh vọng lợi dưỡng, vinh hoa phú quý, tài, sắc, danh, thực, thuỳ, đều để lại cho người thân, mọi người, chúng sinh khổ cần đến nó. Chúng ta giúp đỡ cho họ, sớm được lìa khổ được vui, phá mê khai ngộ, và tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật Như Lai. 
Chúng ta bố thí, cúng dường tài bảo bằng cách quán tưởng, tuy nhiên về mặt pháp lý vẫn là thuộc về chúng ta đứng tên, nhưng không còn là của chúng ta nữa, chúng ta không cần đến, việc tài sản, vật chất đó, còn tồn tại hay mất đối với chúng ta giờ đây không còn quan trọng. Như vậy, chúng ta đã buông bỏ được tâm tham rồi, cuộc sống của chúng ta từ nay trở đi, là đời sống trí tuệ cao đẳng, tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. 
Việc cúng dường tài bảo, vật chất, cho các bậc thượng thiện tri thức, người dẫn đạo, để hoằng pháp lợi sinh, trồng ruộng công đức, phước báu, thì chúng ta là đệ tử Phật chân chính, chính thiện, thì phải nhận số tài bảo đó, để hoằng pháp lợi sinh. Nhưng tiền nhận bố thí, cúng dường của đại chúng thí chủ, thì chưa có việc dùng đến, vẫn phải để ở ngân hàng, và mình đứng tên chủ tài khoản, nhưng tuyệt đối không phải tiền của chúng ta. Khi chúng ta hiểu thấu được vấn đề này, thì tất cả tài bảo, vật chất hằng ngày mà chúng ta làm ra được một cách chính đáng, đúng pháp luật, giới luật, nguyên tắc, đạo lý, phương pháp, cảnh giới trong Phật pháp, và đều mang những thứ vật chất, tài bảo đó, đi bố thí, cúng dường cho mọi người, mọi chúng sinh gặp hoạn nạn, khổ hạnh, khó khăn, nghèo đói, không điều kiện, cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Bản thân chúng ta cũng không dùng đến số tiền, tài bảo, vật chất đó.
Chúng ta được hưởng đời sống trí tuệ cao đẳng, tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững, từ thời điểm có sự giác ngộ chính giác, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính, đến hết thời gian thọ mạng của chúng ta. Bất cứ thời gian nào mà được đức Phật A di đà, cùng hai vị Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí, cùng thánh chúng đến tiếp dẫn chúng ta, thì chúng ta liền theo các Ngài về thế giới Tây phương cực lạc, tu hành viên mãn thành chư Phật Như Lai.
Khi chúng ta bị người đến trộm cướp chiếm đoạt lấy hết tài sản, của cải, vật chất, tinh thần, tình cảm, người thân, lấy hết những gì mà chúng ta đang có, và phá hỏng hết những thứ đó, cũng như do thiên tai, họa hoạn, làm mất hết tài sản, tài bảo, vật chất, tinh thần, tình cảm, thì chúng ta có lo lắng, khổ đau, phiền não, oán trách, báo thù họ không. Xin thưa với bạn nếu chúng ta là đệ tử Phật chân thật thì chúng ta không hề có một chút lo lắng, phiền não, khổ đau, vướng mắc gì. Vì đó là quy luật nhân quả, chư Phật Như Lai đang khuyên bảo chúng ta buông bỏ tất cả những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng mà, việc họ đến lấy đi những thứ đó, chính là việc đang giúp chúng ta một tay, để chúng ta hiểu thấu Phật pháp và buông bỏ những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, khi họ chưa đến lấy đi hết những thứ tài bảo, vật chất, tinh thần, tình cảm của chúng ta, thì chúng ta còn khó buông bỏ những thứ giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, bây giờ họ đến lấy đi hết những thứ đó rồi, thì chúng ta không buông bỏ cũng không được. Như vậy, là họ có ơn huệ với chúng ta, chứ không phải là hận thù oán trách. Chúng ta càng hiểu thấu Phật pháp và buông bỏ hết những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, thì được càng gần với cảnh giới của chư Phật Như Lai hơn, đời sống của chúng ta, là đời sống trí tuệ cao đẳng, đời sống của chư Phật Như Lai.
Chúng ta biết xã hội ngày nay, có ai mà không đang tạo tội nghiệp, từ vô lượng kiếp đến nay, đã và đang tạo tội nghiệp, nên đang phải chịu nghiệp báo ở sáu cõi luân hồi. Chúng ta đang ở kiếp người, để trả nghiệp báo đó, do trước đây chính chúng ta do vô minh, phân biệt, vọng tưởng, chấp trước, cho nên quên mất chính bản thân mình. Cái chân thật là mình, là pháp thân, bản thể, Phật tính, giống như màn hình của vô tuyến, màn hình cố định không đổi, nhưng hình ảnh trong vô tuyến thì luôn thay đổi theo các chương trình kênh cài đặt. Phật tính là bất sinh bất diệt, do chúng ta quên mất nên mới có vọng tâm, biến ra sáu cõi ba đường ác luân hồi, mười pháp giới. Giúp đỡ tất cả chúng sinh nhưng không để lại ấn tượng, dấu vết nào, tức là việc đó là đương nhiên, không điều kiện, không có ý niệm cầu mong gì, phù đáp, được mất, lấy bỏ, xin cho, không để lại ấn tượng, dấu vết. Đó chính là cảnh giới của tâm vô thượng bồ đề, tâm vô thượng chính đẳng chính giác. Chúng ta giúp đỡ tất cả chúng sinh trong sáu cõi, ba đường ác luân hồi và trong vũ trụ nhân sinh này, bình đẳng không phân biệt chúng sinh chính thiện hay xấu tà ác, tất cả chúng sinh đều được bình đẳng như nhau, giúp đỡ bằng tâm trí thành cung kính, đó mới là việc học đạo Phổ Hiền hạnh nguyện.
2. Cúng dường chính pháp, là việc hoằng pháp lợi sinh, giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, hay việc phát hành, ban hành, xuất bản, sản xuất, ban tặng, bố thí, cúng dường, cũng như việc dẫn đạo, truyền đạo, giới thiệu Phật pháp, mang lại chân thật lợi ích hiểu biết trí tuệ, công đức, phước báu như nhau, bằng nhau, của tất cả những cuốn sách, tờ báo, băng đĩa, viễn thông đa phương tiện phục vụ con người, cũng như đối với tất cả chúng sinh tận hư không khắc các pháp giới, bình đẳng học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Trong tâm của chúng ta không chấp tướng, tức là chúng ta không chấp trước tất cả những thứ đã có trước, và những thứ đang có trong vũ trụ nhân sinh này, “phàm những gì có tướng, đều là hư vọng”, chúng ta không nên chấp vào những cái giả tướng đó, những cái đó đều là giả hoặc là không có thật. Không chấp vào tất cả mọi thứ, không được chấp vào cái tôi, cái của tôi, vì tất cả những thứ trong vũ trụ nhân sinh này, với chính mình là đồng thể, đều là chính mình không hai, đều là Phật tương lai. Chúng ta cần học tập với hai vị Bồ tát Quán Vô Trụ và Bồ tát Thần Thông Hoa, tâm chúng ta như tâm của vòng tròn, còn hoàn cảnh môi trường thuận nghịch bên ngoài luôn thay đổi, giống như vòng tròn ngoài, luôn chuyển động không ngừng, liên tục, không gián đoạn. Chúng ta trong thực tế đạt được cảnh giới pháp thân thanh tịnh là khó, nhưng vẫn làm được, vì sáu căn của chúng ta tiếp xúc với cảnh giới sáu trần luôn để lại ấn tượng rất sâu, luôn làm cho tâm chúng ta bị chi phối, bị động tâm. 
Chúng ta đã biết pháp môn niệm Phật, là pháp môn vô cùng hiệu quả, vô cùng lợi ích trí tuệ, công đức, khi chúng ta niệm Phật, niệm sáu chữ hồng danh “Nam mô A di đà Phật”, niệm đến trình độ thuần thục, công phu niệm Phật thành khối, thì có thể đè phục, chế ngự tất cả các phiền não, sinh khởi trong quá trình tiếp súc với cảnh vật môi trường thuận nghịch bên ngoài, người này nói thế này, người kia nói thế kia, bạn chấp trước vào đó, thì là sai rồi, tâm bạn cần có Định Huệ, để phân biệt đâu là giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, đâu là thật tướng của tất cả các pháp, vạn pháp đều không. Tức là bạn phải giữ được lập trường, tư tưởng chính tri, chính kiến, theo đúng con đường của Bát chính đạo. Ai nói gì mặc kệ họ, nói sao cũng được, nghĩ gì cũng được, làm gì cũng được, chúng ta không chấp vào cái giả tướng đó. Việc của chúng ta thì chúng ta làm, sao cho đúng với đạo lý, phương pháp, cảnh giới, chính pháp trong Phật pháp, y giáo phụng hành. “Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”, tức là khi có một niệm vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, làm cho chúng ta động tâm, thì ngay lập tức chúng ta niệm Phật, “Nam mô A di đà Phật”, để chế ngự, đè phục nó xuống, không cho nó khởi tác dụng, không cho nó chi phối, sắp đặt, điều khiển chúng ta. Chúng ta làm được đến như vậy, thì đạt được thành công tốt đẹp và giữ gìn được bồ đề tâm bền vững. 
Công phu niệm Phật của chúng ta đạt đến viên mãn, sự lý nhất tâm bất loạn, cảnh giới cao nhất vào được đạo tràng A di đà nguyện hải, vào được biển nguyện A di đà Phật, một niệm không sinh, là bồ đề tâm bền vững kiên cố, khi chúng ta đạt được cảnh giới này, thì niệm Phật hay không niệm Phật, đều như nhau. Đạo lý là “niệm mà không niệm, không niệm mà niệm, niệm cùng không niệm là một việc, không phải hai việc”. Chúng ta tự giác học Phật tu pháp, là để thành chư Phật Như Lai, đúng như lý, đúng như chính pháp trong Phật pháp mà làm, y giáo phụng hành, y giáo bất y nhân, y nghĩa bất y văn, tâm chúng ta có Định sinh Huệ, Định Huệ là một, không hai, “tâm khai ý giải”, đây chính là sự giác ngộ hiểu biết trí tuệ, công đức, minh tâm kiến tính thành Phật Như Lai.                  
  Chúng ta làm thế nào để cuộc sống hằng ngày của chúng ta, sao cho tương ứng với từng câu, từng chữ, từng đạo lý, phương pháp, cảnh giới trong Bộ Kinh A Di Đà, Quán Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, cũng như ba đại tạng kinh, mười hai giáo. Chúng ta làm ra được tấm gương tốt nhất, chân thật nhất, đúng đạo lý, đúng chính pháp trong Phật pháp, vì mọi người diễn bầy ra cho họ quán sát, từ đó tin ưa, tự giác học Phật tu pháp và hiểu thấu được Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, tự làm mới tư tưởng, đạo đức, phong cách của chúng ta, sao cho phù hợp với đức tính của Phật Như Lai. Đây chính là sự giác ngộ chính giác, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, phát được bồ đề tâm bền vững, tu hành viên mãn viên thành Phật Như Lai. Chúng ta cần phải vì người diễn nói, làm như thế nào, sao cho cuộc sống của chúng ta phải khế nhập, tương ứng với những đạo lý, phương pháp, cảnh giới chính pháp trong Bộ Kinh Vô Lượng Thọ. Tức là cuộc sống của chúng ta là đạo lý, phương pháp, cảnh giới đời sống của Phật Như Lai, ở trong Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật. Vì người diễn nói, biểu diễn tất cả sao cho tương ứng, khế nhập y trang, không một dấu vết, không một tạo tác, mà phải tự nhiên như thể tính, chân như bổn tính của chúng ta, như đời sống của đức Phật Như Lai. 
Thế giới Tây phương cực lạc, được chia làm bốn mức độ: là phàm thánh đồng cư, phương tiện hữu dư, thực báo trang nghiêm, thường tịnh quang Phật. Như vậy, chúng ta có thể lý giải ba bậc chín phẩm vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, là chúng ta khế nhập tương ứng với “giáo lý hành quả” trong Phật pháp, đạt đến được 100% y giáo phụng hành theo Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật, cũng như các bộ kinh khác, thì được thượng phẩm thượng sinh. Nếu chúng ta làm đến được 90%, thì được thượng phẩm trung sinh, và cứ tiếp xuống đến 20% thì được hạ phẩm hạ sinh. Nếu chúng ta chỉ làm được dưới 20%, thì đời này chúng ta mới chỉ là kết duyên với đức Phật A di đà, còn chúng ta đời này chưa được đủ điều kiện vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, kiếp sau chúng ta lại có được thân người, hoặc tốt hơn là được làm chư thiên cõi trời. Nhưng như vậy, chúng ta vẫn phải hụp lặn trong sáu cõi luân hồi, không biết ngày ra, vì nó có tiến, có thoái tâm, tiến thì ít còn thoái tâm thì nhiều. Chính vì hiểu thấu điều đó, chúng ta cần tinh tấn tự giác học Phật tu pháp, y giáo phụng hành để trong một đời này, nhất định đạt được đủ điều kiện, phát được bồ đề tâm bền vững, được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, tu hành viên mãn thành Phật Như Lai. Chúng ta về đến thế giới Tây phương cực lạc, ngay lập tức được oai thần lực của Phật A di đà, gia trì bổn nguyện với bốn tám đại nguyện, chúng ta liền có được sự toàn tri như đức Phật A di đà. Hạ hạ phẩm vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, đều có được đầy đủ vạn đức, vạn năng, như đức Phật A di đà. 
Cúng dường Pháp, là giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, đây là phương pháp truyền đạt, lưu truyền, hoằng pháp lợi sinh, phổ độ cho tất cả mọi người, chúng sinh tận hư không khắc các pháp giới, bình đẳng được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, đây là phương pháp quan trọng nhất, hiệu quả có được công đức, phước báu lớn nhất, trong ba loại cúng dường, thì cúng dường pháp là thù thắng, hiệu quả nhất, đây là ba vị Bồ tát là Quang Anh, Bảo Tràng, Bảo Anh thể hiện. Chúng ta phải học tập với các Ngài, biết cách làm thế nào để việc hoằng pháp lợi sinh, lưu giữ, bảo truyền Phật pháp một cách hiểu quả, thẳng tắt nhất, như việc chúng ta dựa vào sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật công nghệ thông tin, nền kinh tế phát triển hiện đại, mà xây dựng đạo tràng, in sách báo và phát hành các loại đĩa vi tính cd, vcd, dvd, và dựa vào vô tuyến truyền hình phát trên vệ tinh, đường truyền internet đến khắp mười phương thế giới, giúp ích cho mọi người, chúng sinh được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Hoằng pháp lợi sinh, là vì sự lợi ích hiểu biết trí tuệ, công đức thiết thực nhất, mà Phật pháp đem lại cho cuộc sống của chúng ta. Trước đây do không có giấy, bút, mực, để biên tả kinh điển, hoằng pháp lợi sinh, thì sử dụng thân mạng phương tiện thiện xảo để hoằng dương chính pháp trong Phật pháp, “lấy da làm giấy, lấy xương làm bút, lấy máu làm mực, để thư tả kinh điển”. Điều này muốn nói cho chúng ta biết, việc viết chép kinh điển, để hoằng pháp lợi sinh, là việc vô cùng lợi ích trí tuệ, được công đức, phước đức vô lượng vô biên, giúp cho mọi người, chúng sinh tận hư không khắc các pháp giới, bình đẳng được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật Như Lai. Hoằng pháp lợi sinh giúp tất cả chúng sinh thoát khỏi sáu cõi, ba đường ác luân hồi, thì điều này vô cùng thù thắng, hiệu quả không có gì quý giá so sánh bằng, không có gì diễn tả nói hết được công đức, phước báu vô cùng tận. Điều này tuy khó làm, nhưng mà làm được, bốn chúng đệ tử Phật chúng ta tự giác học Phật tu pháp, đúng theo lý, đúng theo chính pháp, y giáo phụng hành, thì đều có thể làm được việc này. Nhưng chúng ta cũng cần chăn sóc bản thân mình, để lấy giả tu chân. 
Huệ mạng là khi chúng ta tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp và buông bỏ tất cả các giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, khôi phục, tìm lại được chân như bổn tính, chân tâm, bản thể, pháp thân, minh tâm kiến tính, tri kiến Phật, Phật tính, trí tuệ Phật chân thật, duy nhất của chúng ta, đại triệt đại ngộ, hiểu biết chân thật chân tướng sự thật của vũ trụ nhân sinh này, thì đó chính là huệ mạng của chúng ta, cũng như của tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, đó là trí tuệ, bát nhã chân thật, bất sinh bất diệt của chúng ta và của tất cả chúng sinh, được giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, trong sáu cõi ba đường ác. Huệ mạng của chúng ta là bất sinh bất diệt, nó không có hình tướng, nhưng nó lại có thể biến hiện ra tất cả các giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, theo nghiệp báo chiêu cảm, theo chính tâm tưởng chấp trước, vọng tưởng, phân biệt, của chúng ta mà biến hiện ra tất cả mọi thứ trong vũ trụ nhân sinh này. Khi chúng ta tìm thấy được chân tâm của chính mình, thì sẽ không biến hiện ra sáu cõi luân hồi, và được siêu việt luôn mười pháp giới, chứng được pháp giới nhất chân, vô trụ Niết bàn, thành bậc vô lượng thọ Phật.
Sinh mạng của chúng ta chính là cơ thể vật lý, sinh học, thân giả tướng, giả tạm, vô thường do tâm tưởng chúng ta biến hiện ra, đó chính là tâm tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri, tà kiến, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, biến hiện ra tất cả mọi thứ mọi sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, trong sáu cõi luân hồi, ba đường ác và mười pháp giới. Cơ thể sinh học, vật lý của chúng ta tồn tại và phát triển là do có được thần thức, bản thể, pháp thân, chân tâm của chúng ta, cho nên khi thần thức, bản thể, pháp thân, chân tâm của chúng ta đi ra khỏi cơ thể sinh học, vật lý, thì thân thể không còn tồn tại nữa, nó tự động phân huỷ và biến mất thành vật chất đơn thuần, vô tình, như đất, nước, gió, lửa, vì nó là giả tướng, giả tạm, hoặc là không có thật, nhưng tuy nó là giả tướng, thì chân tâm của chúng ta cũng cần trụ vào giả tướng đó, để giúp chúng ta tu thật tướng, làm chủ giả tướng, khôi phục chân tâm. Chúng ta hiểu được như thế và làm được như vậy, thì xin chúc mừng bạn, vì bạn đã giác ngộ chính giác, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, từ nay trở đi cuộc sống của bạn được hưởng những ngày tháng tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. 
Cúng dường Phật pháp được chia làm bẩy loại: y giáo phụng hành cúng dường, lợi ích chúng sinh cúng dường, nhiếp thọ chúng sinh cúng dường, đại chúng sinh khổ cúng dường, tu thiện căn cúng dường, bồ tát nghiệp cúng dường, bất ly bồ đề tâm cúng dường. Bồ tát thường tu Lục độ, vạn hạnh, bao gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, bát nhã. Trong đó trì giới, nhẫn nhục thuộc về vô uý cúng dường, còn tinh tấn, thiền định, bát nhã thuộc về pháp cúng dường. Trong bẩy loại pháp cúng dường trên, thì phương pháp y giáo phụng hành và bất ly bồ đề tâm cúng dường, là quan trọng nhất, đạt được hiệu quả lợi ích trí tuệ, công đức, phước báu lớn nhất. 
Y giáo phụng hành cúng dường, là cúng dường chư Phật Như Lai, cúng dường mười phương ba đời chư Phật Như Lai, đó là quá khứ Phật, hiện tại Phật, vị lai Phật, đây cũng là y thuyết tu hành, là đem tất cả những lời dạy bảo, giáo huấn, chỉ đạo, truyền đạo, khuyến đạo, giới thiệu Phật pháp trong kinh giáo, từng câu, từng chữ, đạo lý, phương pháp, cảnh giới trong kinh giáo, chúng ta đều lĩnh hội và hiểu thấu, minh bạch được tất cả các ý nghĩa trong kinh và thực hành được luôn trong thực tế đời sống hằng ngày. Tức là chúng ta thâm nhập, khế nhập, tương ứng với đời sống trong Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật. Chúng ta làm được khế nhập vào kinh giáo đạt đến 100% không có dấu vết, không có tạo tác, làm được hoàn toàn giống như tư nhiên, đó chính là đời sống của Phật vô lượng thọ. Như vậy thử hỏi tương lai chúng ta có đương nhiên được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, tu hành viên mãn thành Phật Như Lai. Chúng ta học Phật tu pháp phải y giáo phụng hành, y thuyết tu hành, chúng ta phải làm được đúng như đạo lý, đúng như chính pháp và cầu nguyện vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, là mục đích của chúng ta, “giáo lý hành quả, tín giải hành chứng, tín nguyện trì danh”, tức là phải có “tín nguyện hạnh”, “tin sâu, nguyện thiết, hành chuyên”, “tin sâu không nghi”, “nhân duyên quả báo chân thực bất hư không sót mẩy trần”, việc tu hành tạo nhân duyên, tự giác học Phật tu pháp của chúng ta như thế nào, thì quả đạt được tương ứng như vậy, ở đây nhân của chúng ta là y giáo phụng hành, thì được quả tương ứng là thành Phật cứu cánh viên mãn.
Lợi ích chúng sinh cúng dường, trong Tịnh Độ tông, gồm có năm kinh, một luận, hỗ trợ chúng ta học Phật tu pháp môn, đó là Kinh A Di Đà, Bộ Kinh Vô Lượng Thọ, Quán Kinh Vô Lượng Thọ, Phổ Hiền hạnh nguyện mười đại nguyện vương quy về Cực lạc, Bồ tát Đại Thế Chí niệm Phật viên thông chương, và một luận là niệm Phật cầu nguyện vãng sinh Tịnh Độ luận. Chúng ta làm theo y trang được 100%, thì gọi là y giáo phụng hành, hoặc y thuyết tu hành, chuyên đi theo ngũ kinh, nhất luận, là đầy đủ mọi thứ rồi, một môn thâm nhập, khế nhập, tương ưng, thành công là vô cùng nhanh chóng, thẳng tắt, không cần kham khảo thêm các tài liệu khác. Chúng ta cũng đã nghe thấy, nhìn thấy, chứng kiến nhiều người niệm Phật, đến khi hết thời gian thọ mạng đứng mà đi, ngồi mà đi, tướng lành lúc ra đi, sống mà đi, họ không bị bệnh, biết trước được giờ đi về thế giới Tây phương cực lạc, đây là lợi ích trí tuệ cao đẳng, công đức, thành tựu chân thật, tốt đẹp nhất, vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn.
Chúng ta giữ gìn tâm biết ơn đền ơn, “trên đền bốn ơn nặng dưới cứu khổ ba đường. Các hoạt động như thân, khẩu, ý nghiệp của chúng ta đều vì lợi ích chúng sinh cúng dường, giúp đỡ, thương sót, giới thiệu Phật pháp cho mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, bình đẳng được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. Tự độ mình, độ người giải thoát cho chúng sinh ra khỏi sáu cõi, ba đường ác luân hồi, chúng ta làm được điều đó mới chân thật là vì lợi ích chúng sinh cúng dường, đây là lợi ích lớn nhất. 
Chúng ta trong cuộc sống hằng ngày mỗi niệm là vì lợi ích chúng sinh, mỗi công việc hành động nào cũng là vì lợi ích chúng sinh, như ăn cơm, mặc áo và tất cả các hành vi sinh hoạt của chúng ta, cũng là vì lợi ích chúng sinh cúng dường. Chúng ta giúp đỡ bình đẳng cho mọi người đều được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật Như Lai. Còn nếu chúng ta chỉ giúp đỡ họ, có được cuộc sống đầy đủ vật chất, ấm no, hạnh phúc, ung dung, tự tại, bình yên, thì cùng lắm cũng chỉ được mấy mươi năm hưởng thụ là cùng. Đến khi hết phước báu, hết giời gian thọ mạng, thì cũng phải chịu nghiệp báo luân hồi, trong sáu cõi ba đường ác, chịu nhiều nỗi sống khổ đau, kịch ác tột khổ, không biết đến bao giờ ngưng dứt, thật đáng thương xót vô cùng. Do đó lợi ích chúng sinh cúng dường, là giúp họ trong cuộc sống có được đầy đủ vật chất, tinh thần, sức khoẻ, ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững, đến khi hết thời gian thọ mạng, ra đi về thế giới Tây phương cực lạc, thì được ung dung, tự tại, đứng mà đi, ngồi mà đi, tướng lành lúc ra đi, họ không bị bệnh, biết trước được giờ đi, đây là lợi ích trí tuệ, công đức, thành tựu chân thật, trong một đời tự giác học Phật tu pháp, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật Như Lai.
Nhiếp thọ chúng sinh cúng dường, là chúng ta cần có phương tiện thiện xảo, để dẫn dụ mọi người, họ vốn chưa biết đến Phật pháp, hoặc họ biết nhưng chưa thấy được sự lợi ích hiểu biết trí tuệ cao đẳng, công đức to lớn chân thật, của việc tự giác học Phật tu pháp, Phật Pháp chân thật mang lại lợi ích công đức, trí tuệ cao đẳng, ngay trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta không một chút giả dối, không một chút mê tín. Chính vì chúng ta biết rõ hiểu thấu Phật pháp, là nền văn hoá giáo dục, mạng lại lợi ích trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báu, vô lượng vô biên. Cho nên chúng ta phải có trách nhiệm, nghĩa vụ, sự nghiệp cả đời của chúng ta, là tự giác học Phật tu pháp, và có được sự toàn tri, dùng phương tiện thiện xảo, để dẫn dụ, nhiếp thọ chúng sinh cúng dường, cứu giúp, phổ độ cho tất cả mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật Như Lai. 
Chúng ta học Phật tu pháp, theo “Tín Nguyện Hạnh”, mà phải là chân tín, chân nguyện, chân hạnh và là chính tín, chính nguyện, chính hạnh, tuy ba mà là một, không thể tách rời, không thể có yếu điểm ở một trong ba đức hạnh đó, mà phải đồng bộ, là một thể thống nhất. Chúng ta lấy bốn tám đại nguyện của đức Phật A di đà, làm tiêu biểu nhất, là ước nguyện, tâm nguyện cả cuộc đời của chúng ta là vì tất cả mọi người, chúng sinh khổ đau, phiền não, mà lập lời thề nguyện sâu sắc, rộng khắp, bao trùm không gian và thời giai, cả vũ trụ nhân sinh này, hoằng dương chính pháp, lợi ích quần sinh.  
Với tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, từ bi bác ái, bao dung độ lượng, đại từ đại bi, chúng ta xin được phát lời thề nguyện rộng khắp thế giới nhân loại và chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, từ thời điểm này trở đi, chúng ta lập lời thề nguyện phổ độ, dẫn đạo, truyền đạo, khuyến đạo, giới thiệu Phật pháp, thương sót vô lượng vô biên chúng sinh tận hư không khắc các pháp giới, bình đẳng được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A di đà Phật được công phu niệm Phật thành khối, lý nhất tâm bất loạn, được minh tâm kiến tính, khôi phục được chân như bổn tính, cầu nguyện được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, thành bậc bất thoái tu hành viên mãn thành Phật Như Lai. Nếu không được như thế, thề không thành Phật Như Lai. 
Chúng ta cùng nhau lập lời thề nguyện rộng khắp, cùng nhau chân thực làm bằng được những điều thề nguyện đó, tự giác đi làm công việc này chân thật có ý nghĩa to lớn, còn các công việc khác, thì không có ý nghĩa so sánh bằng. Chúng ta biết có rất nhiều phương tiện thiên xảo, để nhiếp thọ chúng sinh cúng dường, có thể chúng ta hiện giờ chưa đủ vạn đức, vạn năng, oai thần lực, để nhiếp thọ chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, thì chúng ta có thể giới thiệu Phật pháp, những người thượng thiện tri thức, giúp ích cho mọi người, chúng sinh biết đến Phật pháp, tự giác học Phật tu pháp đạt được lợi ích trí tuệ cao đẳng, công đức vô lượng vô biên. Nhưng trong tương lai nhất định tất cả bốn chúng đệ tử Phật chúng ta, phải có đủ khẳ năng, lực lượng, oai thần lực, để nhiếp thọ chúng sinh cúng dường, giúp đỡ tất cả chúng sinh, được giải thoái khỏi sáu cõi luân hồi, và cùng với chúng ta, tu hành các công đức được viên mãn viên thành Phật đạo. Khi đó họ được chúng ta giúp, mà có được thành tựu chân thật lợi ích trí tuệ cao đẳng, công đức, phước đức, công ơn đó, chúng ta đạt được vô cùng lớn, và được họ luôn tâm niệm biết ơn đền ơn chúng ta. 
Đại chúng sinh khổ cúng dường, là việc chúng ta phải phát tâm sâu rộng, tâm bao thái hư lượng khắp pháp giới, bao chùm khắp hư không, khắp các pháp giới chúng sinh, được chịu khổ thay cho mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới này. Đó chính là đại từ bi tâm, tâm bồ đề bền vững. Đại chúng sinh khổ bao gồm, tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới có khổ đau, phiền não, không điều kiện, thiếu hiểu biết trí tuệ, chưa được vào cửa nhà Phật, chưa được pháp mê khai ngộ, lìa khổ được vui, thì đó chính là những chúng sinh trong sáu cõi luân hồi, ba đường ác. Chúng sinh trong Địa ngục là phải chịu nhiều nỗi sống khổ đau, ác liệt nhất, là nơi tận cùng của sự tột khổ cùng cực nhất, khổ cực không cùng tận, như lửa lớn đốt cháy thân người, chúng ta cần phải phát được đại từ bi tâm cứu giúp họ. 
Bênh khổ có ba loại, là bệnh sinh lý họa hại, bệnh do oan gia trái chủ và bệnh do tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, tích tụ từ nhiều đời nhiều kiếp đến nay, do chính chúng ta tạo tội nghiệp, nên phải chịu quả báo luân hồi, tuy có được thân người hoặc làm chư thiên ở cõi Trời, nhưng vẫn phải trả nghiệp tội nhân quả báo. Đại chúng sinh khổ bao gồm mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, chưa được nghe giảng kinh thuyết pháp, chưa hiểu thấu được Phật pháp, phải chịu quả báo sinh tử luân hồi, chịu nhiều khổ nạn, lặn hụp trong sáu cõi ba đường ác luân hồi, không biết đến ngày nào được giải thoát. Điều này so với tất cả các khổ hạnh, khổ nạn khác, đều không có gì lớn hơn, đều không có gì khác biệt, đều là đại chúng sinh khổ. 
Chúng ta dùng phương pháp quán tưởng để trải sự luyện tâm, quán sát tất cả vũ trụ nhân sinh này có những nỗi khổ đau, phiền não của đại chúng sinh khổ, tận hư không khắp các pháp giới. Chúng ta biết được nỗi sống khổ đau không cùng tận đó, và càng mê càng sâu đó, để mà từ đó phát tâm thề nguyện sâu rộng, nếu chúng ta thực sự được chịu khổ thay cho tất cả đại chúng sinh khổ nỗi sống khổ đau đến cùng cực này, để tất cả đại chúng sinh khổ được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, chúng ta tuy phải chịu nỗi khổ đau đến cùng cực đó, nhưng vẫn vui vẻ, hạnh phúc tiếp nhận. Vì đây là lời thề nguyện sâu rộng của chúng ta, khi phát ý nguyện viên thành được cảm ứng đạo giao, thì đây chính là đại từ bi tâm của chúng ta, sinh khởi bồ đề tâm, đã chuyển nghiệp của chúng ta, thành nguyện của chư Phật Như Lai.
Tuy chúng ta phát lời thề nguyện sâu rộng như thế, nhưng cũng không thể thay thế, chịu khổ thay cho đại chúng sinh khổ được. Chúng ta chỉ có thể giúp họ được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, tự giác tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. Vì đây là quy luật nhân quả, không ai có thể chịu thay thế cho ai được, đến chư Phật Như Lai, chư Bồ tát cũng không làm được việc thay thế đó, không thể phá vỡ quy luật này. Bạn đã phát lời thề nguyện từ tâm chân thật của bạn, nguyện phổ độ mọi người, mà không người nào được độ, nguyện chịu khổ thay cho tất cả mọi người khổ, mà không người nào hết khổ, đây chính là quy luật nhân quả. 
Nhưng chúng ta cũng có phương pháp gần giống như thay thế đại chúng sinh khổ cúng dường, đó là phát tâm giúp đỡ tất cả đại chúng sinh khổ tận hư không khắp các pháp giới. Tức là chúng ta hạ thấp đời sống vật chất của mình xuống một bậc, mà đem hết số tiền, tài sản, vật chất có được cùng với công sức, tinh thần của chính mình, để giúp đỡ thương sót đại chúng sinh khổ cúng dường, thể hiện bằng các hoạt động, việc làm thiết thực trong thực tế đời sống của mỗi chúng ta. Như in ấn kinh sách, thông tin đại chúng, báo đài, sản xuất các loại đĩa cd, dvc, dvd, và nhờ sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật hiện đại, như viễn thông, vô tuyến truyền hình vệ tinh, hệ thống mạng internet, để hoằng pháp lợi sinh đến đại chúng sinh khổ. 
Tu thiện căn cúng dường, là không tham, không sân, không si, cũng là ba thiện căn của chúng ta, cũng như tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới. Chúng ta cần tu ba thiện căn, không tham, không sân, không si cúng dường, giống nhưng các vị Bồ tát, thì học Phật tu pháp tinh tấn, không nhàm chán, không mệt mỏi, mới viên thành Phật đạo, còn chúng ta cũng cần tu ba thiện căn, không tham, không sân, không si, và tu bằng tinh thần tinh tấn, rốt ráo học Phật, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, trong đó đặc biệt có pháp môn Tịnh Độ tông phù hợp với mọi căn cơ, trình độ của chúng ta ngày nay. Vì đây là pháp môn bình đẳng, viên giáo, đốn giáo. Viên giáo là tất cả vạn sự vật, sự việc, hiện tượng đều đạt đến viên mãn. Đốn giáo là không tuân theo địa vị, trình độ, chính thiện tà ác, đúng sai, nhân ngã thị phi, để xếp thứ tự. Bình đẳng là việc không phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, đều được học Phật tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, viên mãn thành Phật đạo. 
Đức Phật Như Lai luôn liên tục tâm niệm, niệm niệm, đều vì lợi ích của chúng ta, mong mỏi như cha mẹ nhớ mong con cái, chờ đợi ngày đêm, không gián đoạn, mong muốn chúng ta sớm tự giác học Phật tu pháp viên thành Phật đạo. Có đủ điều kiện phát được bồ đề tâm bền vững, được vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc, tu hành viên mãn thành chư Phật Như Lai. 
Bồ tát nghiệp cúng dường, là việc tự giác học Phật phải “tin sâu nhân quả, nghiêm trì giới luật, tín tâm kiên cố bền vững, quyết định hành môn, rộng độ chúng sinh, hoằng dương Phật pháp, hoằng pháp lợi sinh”. Chúng ta lấy việc hoằng pháp lợi sinh làm trách nhiệm, tâm nguyện của Bồ tát nghiệp cúng dường, chính là hành nguyện, phát tâm chịu khổ thay cho tất cả đại chúng sinh khổ, và giúp đỡ mọi người, chúng sinh tận hư không khắc các pháp giới, bình đẳng được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật Như Lai. Chúng ta trong tâm phải luôn giữ gìn tâm bồ đề, luôn để tâm đến việc biết ơn đền ơn, đáp nghĩa, tích thiện đức, “trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường”. Chúng ta phải làm tấm gương tư tưởng đạo đức phong cách hiểu biết trí tuệ cao đẳng, cho đại chúng sinh học tập, làm theo. Tức là chúng ta sống, là sống đời sống của đức Phật trong Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật. Chúng ta làm việc, là hoằng pháp lợi sinh, giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, bảo truyền, lưu thông kinh sách trên các phương tiện đại chúng, hệ thống mạng internet đến mười phương thế giới, để mang lại chân thật lợi ích công đức, trí tuệ cao đẳng, cho mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới. Chúng ta tự giác học Phật tu pháp, phát được bồ đề tâm, có đủ điều kiện được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, nhưng hiện giờ người thì vẫn chưa đi, vẫn sống trên thế gian này, chưa hết thời gian thọ mạng. Vậy chúng ta gìn giữ tâm bồ đề bền vững và làm chủ con đường trung đạo, tuỳ duyên bất biến, bất biến tuỳ duyên. Sự nghiệp của chúng ta chính là làm công tác giáo dục, vì lợi ích của mọi người, để trải qua đời sống hằnh ngày được tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững, đời sống trí tuệ cao đẳng, để giải quyết các vấn đề và ứng phó với các vẫn đề nảy sinh trong cuộc sống của chúng ta, đạt được kết quả thành tựu tốt đẹp nhất.
Bất ly bồ đề tâm cúng dường, chính là việc giữ gìn tâm bồ đề bền vững. Vậy bất ly bồ đề tâm cúng dường, tức là chúng ta tu tất cả các pháp cúng dường, mà chúng ta không bị pháp mê hoặc, vướng mắc. Chúng ta tu tất cả các pháp cúng dường, tài bảo, Phật pháp, vô uý mà không bị tài bảo, các pháp làm mê hoặc, vướng mắc chúng ta. Trách nhiệm, tâm nguyện của chúng ta, là được giúp đỡ mọi người được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Tức là giúp đỡ mọi người, chúng sinh có được lợi ích trí tuệ, công đức, phước báu chân thật, nhưng cũng không bị chúng sinh mê hoặc, chi phối đến tâm bồ đề thanh tịnh của chúng ta. Chúng ta làm được điều đó, chứng tỏ tâm chúng ta có “Giới Định Huệ”, hay “Giác Chính Tịnh”, “ngoài không động tâm, trong không chấp tướng”. Chúng ta không dính tướng ta vào tướng người, vào tướng chúng sinh, không dính vào bất cứ thứ gì trong vũ trụ nhân sinh này. Vì tất cả mọi thứ đó đều giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, không có thật. Điều này có nghĩa chúng ta làm vô lượng vô biên công việc, giúp đỡ mọi người, chúng sinh, nhưng không để lại một chút ấn tượng, không có một chút tạo tác, dấu vết, thanh tịnh như hư không, không dính bám, vướng bận bụi trần, tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian. Phật pháp còn phải buông bỏ huống hồ là phi pháp, tà ác pháp, đây chính là bất ly bồ đề tâm cúng dường. Tức là chúng ta tự giác ngộ trí tuệ Phật, giác tha và hành giác. “Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”.
Ngày nay chúng ta lấy việc giúp đỡ mọi người làm trách nhiệm, tâm nguyện lớn nhất trong cuộc sống của chúng ta. Tức là giúp đỡ mọi người bình đẳng được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. Những người được hưởng lợi ích trí tuệ, công đức chân thật từ việc học Phật tu pháp, hiểu thấu được Phật pháp, muốn vì Phật pháp, để hoằng pháp lợi sinh, đem một số tài bảo do mình tiết kiệm được, không dùng đến, hoặc do muốn phát tâm chịu khổ thay cho đại chúng sinh khổ cúng dường. Chúng ta hằng tháng chi ra một phần tiền lương, thu nhập của mình, để cúng dường cho mọi người, chúng sinh khổ, không điều kiện, hoặc có tâm chân thành cung kính cúng dường cho bốn chúng đệ tử Phật chúng ta, để trồng ruộng phước. Chúng ta phải có tâm chân thành cung kính nhận cúng dường của đại chúng, để trồng ruộng phước, hoằng pháp lợi sinh, tiếp nối huệ mạng của chư Phật Như Lai. 
Nhưng chúng ta bốn chúng đệ tử Phật nhận tài bảo cúng dường của đại chúng, là để cúng dường cho đại chúng sinh khổ, bao gồm tất cả mọi người có khổ nạn, và chúng sinh chưa biết đến Phật pháp. Thực tế chúng ta cũng không dùng đến số tài bảo cúng dường đó, mà là sự chuyền tay cúng dường Phật pháp, và chúng ta quyết không dính bám, sử dụng một chút nào vào số tài bảo đó với mục đích cá nhân mình, mà đại chúng sinh chân thành cung kính cúng dường đó. Tiền, tài bảo, vật chất, công sức, của đại chúng sinh cúng dường, có thể được gửi ở ngân hàng, để khi có việc cần cứu giúp thì lấy ra giúp đỡ những chúng sinh khổ nạn, tuyệt đối không phải tiền, tài bảo, vật chất của mình, chúng ta không được sử dụng cho bản thân mình, đó mới chân thật là bất ly bồ đề tâm cúng dường. 
Nếu chúng ta sử dụng những tài bảo, vật chất cúng dường của đại chúng, thì cùng lắm chỉ được hưởng thụ chút phước báo, đến khi hưởng hết phước báo đó rồi, thì đời sau đọa lạc, đến ba cõi lành hưởng phước vẫn phải chịu luân hồi quả báo trong sáu cõi luân hồi ba đường ác, thì thật là oan uổng, đáng thương xót vô cùng. Chúng ta đang được hưởng phước báu đời này, là do đời trước chúng ta tu được, nhưng bạn hưởng phước báu, mà không chịu tu phước, mà lại còn tạo tội nghiệp chướng thói quen xấu tà ác, thì phước báu đó hết rất nhanh, gọi là tam thế oán, “đời trước tu phước, đời này hưởng hết phước, đời sau đọa lạc”. 
Sự nghiệp Bồ tát là việc hoằng pháp lợi sinh, tức là rộng độ chúng sinh hoằng dương Phật Pháp, giúp đỡ cho mọi người, chúng sinh có được lợi ích trí tuệ, công đức chân thật. Nhưng chúng ta phải có được bồ đề tâm và gìn giữ bồ đề tâm bền vững kiên cố, “ngoài không động tâm, trong không chấp tướng”, “một niệm không sinh”. Công phu niệm Phật thành khối, lý nhất tâm bất loạn, để nắm chắc đầy đủ điều kiện được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc bất thoái thành Phật Như Lai, đó là điều quan trọng nhất, đó cũng là việc chúng ta chân thật cúng dường chư Phật Như Lai.
Chúng ta chân thật tự giác học Phật tu pháp, y giáo phụng hành thì không bao giờ sợ bị khổ đau, phiền não, vì trong ánh sáng quang minh của đức Thế Tôn năm xưa, trong đó có một phần ánh sáng quang minh, để cúng dường cho đệ tử Phật đời sau. Trong đó có đủ mọi thứ cần thiết cho chúng ta, an bài cho chúng ta, có được cuộc sống trí tuệ cao đẳng, tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững, điều này là chân thật bất hư. Chúng ta đã biết còn có ba mươi hai vị Bồ tát, hộ pháp, hiền hộ cho tất cả bốn chúng đệ tử Phật chúng ta, cũng như đối với tất cả những người chân thật tự giác học Phật, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm bền vững, được minh tâm kiến tính thành Phật. Chúng ta chân thật tự giác học Phật tu pháp viên thành Phật đạo, thì không cần đến sự cúng dường hoặc phải đi phang duyên bất cứ một người nào, vì đều là không cần thiết. Tức là tự độ và phổ độ tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, được giải thoái khỏi sinh tử luân hồi, là trách nhiệm, tâm nguyện, là sự nghiệp giáo dục của chúng ta.
Hiện nay trong thực tế chúng ta cũng đều biết đến pháp môn niệm Phật, là tín nguyện trì danh niệm Phật, niệm sáu chữ hồng danh, “Nam mô A di đà Phật”, là danh hiệu của đức Phật A di đà, đây cũng là đức hiệu của tất cả mười phương ba đời chư Phật Như Lai. Đạo lý một là tất cả, tất cả là một, khi chúng ta niệm câu Phật hiệu “Nam mô A di đà Phật”, thì trong đó bao gồm tất cả mười phương ba đời chư Phật Như Lai, không thiếu sót một vị Phật Như Lai nào. Tịnh Độ tông có cả chính trợ song tu, thì giúp ích rất nhiều trong quá trình tu học Phật pháp, Tịnh Độ tông kết hợp với phương pháp học giáo, đó là năm kinh, một luận, kết hợp với Thiền tông là quán tưởng luyện tâm, trải sự luyện tâm. Tịnh Độ tông, ở trong tam tạng thuộc kinh tạng, trong nhị tạng thuộc Bồ tát tạng, trong thời thuộc thời phương đẳng, trong nhị giáo thuộc đốn giáo, trong tứ giáo, ngũ giáo thuộc viên giáo. 
Pháp môn niệm Phật giúp đỡ mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, bình đẳng được học Phật tu pháp, không phân biệt đối tượng là ai. Pháp môn niệm Phật, “tín nguyện trì danh”, “trì danh niệm Phật”, đi, đứng, nằm ngồi, bốn tư thế oai nghi, đều có thể niệm Phật, biến hữu niệm nhập vô niệm, vào biển nguyện A di đà Phật, là pháp môn cực giản dị, cực đốn, cực viên mãn. Chúng sinh ai cũng học được, pháp môn niệm sáu chữ hồng danh, “Nam mô A di đà Phật”, là đủ để tu hành đạt đến viên mãn viên thành Phật đạo, mà không cần phải học thêm bất cứ một pháp môn nào khác. Vì đức hiệu “A di đà Phật” là được tất cả mười phương ba đời chư Phật Như Lai trợ niệm cho chúng ta, cả ba đại tạng kinh, mười hai giáo cũng quy về sáu chữ hồng danh, “Nam mô A di đà Phật”. Chúng ta nương nhờ vào bốn tám đại nguyện của A di đà Phật, cầu nguyện được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, bất thoái thành Phật Như Lai. 
Chúng ta trong thực tế biết được có người học theo pháp môn niệm Phật, niệm sáu chữ hồng danh “Nam mô A di đà Phật”, trong một thời gian rất ngắn từ một ngày niệm Phật đến lý nhất tâm bất loạn, đến bẩy ngày niệm Phật đến lý nhất tâm bất loạn cũng có, ba tháng cũng có, một năm cũng có, ba năm cũng có, thì đạt được hiệu quả thành tựu viên mãn. Đến khi hết thời gian thọ mạng họ đứng mà đi, ngồi mà đi, biết trước giờ đi, tức là sống mà đi chứ không phải chết rồi mới đi, là bất sinh bất tử, là vô lượng thọ Phật, lúc ra đi tướng mạo của họ rất là đẹp, và họ không bị ốm đau, bệnh tật, không hề có một chút đau đớn nào. Đây là điều chân thật không một chút giả dối, thật sự là điều vui sướng, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, lợi ích công đức, trí tuệ cao đẳng, thù thắng tột cùng, vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn. Đây chính là sự chân thật nhất của bất ly bồ đề tâm cúng dường chư Phật Như Lai, cũng là chân thật cúng dường tổ tiên, ông bà, cha mẹ, người thân của chúng ta, và cũng là biết ơn đền ơn cúng dường quốc gia, dân tộc, và cũng là cúng dường cho mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, cuối cùng là sự chân thật nhất cúng dường chính chân như bổn tính của chúng ta. Đây là pháp môn bình đẳng nhất, cực giản dị, cực đốn, cực viên, là pháp môn học Phật tu pháp phổ độ được chúng sinh rộng lớn nhất, lợi ích trí tuệ, công đức hiệu quả thành tựu lớn nhất, không thể nghĩ bàn. 
Tịnh Độ tông là pháp môn có một không hai, giúp đỡ mọi người, trong một đời tu học pháp môn niệm Phật viên mãn thành Phật Như Lai. Tức là đã đem thời gian dài ba đại a tăng kỳ kiếp, rút ngắn xuống còn một đời người, một kiếp người trăn năm, hay một niệm “Nam mô A di đà Phật”. Chư Phật Như Lai dạy bảo chúng ta cần thường xuyên hằng ngày tự giác “niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, niệm thí, niệm giới, niệm thiên”. Tức là phải thường xuyên niệm chư Phật Như Lai, là niệm sáu chữ hồng danh “Nam mô A di đà Phật”. Thường niệm pháp, là nghĩ tới chính pháp tự giác tu học Phật pháp, nghĩ đến ý nghĩa của từng câu, từng chữ, từng đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới trong kinh giáo. Thường niệm tăng, là giữ gìn cho tâm mình thanh tịnh đến tịch diệt, vô nhiễm bụi trần. Thường niệm thí, là thường tu hành các công đức, như cúng dường chư Phật Như Lai, y giáo phụng hành, hoằng pháp lợi sinh, giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói. Thường niệm giới, là giữ gìn không vi phạm luật pháp, thọ trì giới luật trong Phật pháp. Thường niệm thiên, là niệm những người cùng với chúng ta trong quá khứ vô lượng kiếp, cùng phát tâm tự giác học Phật tu pháp, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, thiền định đến minh tâm kiến tính thành Phật. Nhưng họ thì thọ trì y giáo phụng hành, tâm của họ có Định Huệ, họ tinh tấn tự giác học Phật tu pháp đạt đến viên mãn, được bất thoái chuyển viên thành Phật đạo, hiện giờ họ đã tu hành được viên mãn, có được quả vị thành tựu rất cao, thành bậc Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, chư Phật Như Lai. Còn chúng ta ngày trước cùng phát tâm tự giác học Phật tu pháp cùng với họ, nhưng do bị thoái tâm, tâm không có Định Huệ, tu hành chậm tiến, mệt mỏi, nên bị thoái chuyển đến tận ngày nay, vẫn là thân người trong sáu cõi luân hồi chịu nhiều khổ đau, phiền não, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, thật đáng thương xót vô cùng. 
Phật Như Lai dạy bảo chúng ta niệm thiên, là để chúng ta nhìn sự thành đạt của họ, lại nghĩ đến sự thua kém của mình. Trong xã hội ngày nay có rất nhiều vị hoà thượng, pháp sư, thiền sư đắc đạo và những bậc thượng thiện tri thức, mà chúng ta sinh tâm hổ thẹn đến tột cùng, mà bắt buộc chúng ta phải biết tôn trọng, thương sót chính bản thân mình và phải có lòng tự trọng, tự tôn, để tăng lòng quyết tâm, tinh tấn, rốt ráo học Phật tu pháp, để viên thành Phật đạo. Tự độ mình và phổ độ cho mọi người, chúng sinh tận hư không khắc các pháp giới, bình đẳng được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ tất cả những giả tướng, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. Tịnh Độ tông là pháp môn niệm Phật cầu nguyện được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, để theo kịp bằng với họ, là một pháp môn tuyệt diệu, vi diệu thù thắng đến tột cùng, pháp môn niệm Phật cầu nguyện được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, là pháp môn đệ nhất, không có pháp môn nào thẳng tắt, tinh tấn, rốt ráo, phù hợp mọi căn cơ, trình độ của chúng ta, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, có được hiệu quả, lợi ích công đức, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn.                
4. Vô uý cúng dường chư Phật Như Lai bao gồm, thọ trì giữ gìn các giới luật trong Phật giáo, như ngũ giới, thập thiện, nhẫn nhục, ăn chay, niệm Phật cũng là vô uý cúng dường. Trong cuộc sống hằng ngày trong quan hệ sử lý, tiếp người, tiếp vật, tiếp sự việc, cũng thường xuyên giữ cái tâm biết ơn đền ơn, mà trải qua ngày tháng tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên, quyết không làm cho chúng sinh, do chúng ta tạo tác mà sinh phiền não, đau khổ. Chúng ta phải làm cho mọi người, nhân loại trên toàn thế giới và tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, tin tưởng, vui mừng, tôn sư trọng đạo, đến giao lưu, học hỏi, thỉnh giáo, cầu đạo pháp với chúng ta, và sinh tâm “tín nguyện hạnh”, tinh tấn, rốt ráo học Phật tu pháp, mang lại nhiều lợi ích trí tuệ, công đức, phước báu. Chúng ta ăn trường chay hay ăn trai tịnh, là ăn để nuôi dưỡng tâm từ bi bác ái.
Chúng ta biết rõ thịt chúng sinh cũng giống thịt của chúng ta, cũng có đủ mọi thứ như máu, thịt…, cũng biết đau đớn, cũng có tâm tưởng, tình cảm, quý mến, yêu thương, oán trách, hận thù, như chúng ta. Khi bạn ăn thịt, ăn mạng sống của động vật, lúc mới chết thì cho là ngon lành, còn khi để lâu một chút, không được bảo quản, thì bị phân huỷ, hôi tanh, thối rữa, bệnh dịch hư hỏng, mất vệ sinh, khi ăn vào thân thể chúng ta làm hư hại, gây bệnh tật, thậm chí còn nguy hiểm đến cơ thể tính mạng của chúng ta. Khi bạn ăn thịt, ăn mạng sống của chúng sinh vào cơ thể bạn, thì thịt bạn cũng là do thịt của chúng sinh tạo lên, không có gì khác biệt. Mặt khác khi bạn ăn thịt chúng sinh bằng cách trực tiếp sát sinh, hoặc gián tiếp sát sinh. Tức là động vật vì ta mà bị chết, chúng sẽ có tâm thù hận oán trách, chắc chắn bằng mọi cách tìm cách báo thù bạn. Bạn ăn thịt, ăn mạng sống của chúng sinh, thì đều là vi phạm giới tội sát sinh, tội này rất nặng. Chúng ta hiểu được điều đó, thì chúng ta nên phát tâm đại từ đại bi, tâm bồ đề thương sót bình đẳng tất cả động vật, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, trong cuộc sống hằnh ngày cần tu ăn trường chay, ăn trai tịnh, và khuyên bảo mọi người ăn trường chay, để nuôi dưỡng tâm từ bi bác ái. Chúng ta đều hiểu thấu tất cả mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, với chúng ta là đồng thể, đều là chính mình, nên việc chúng ta ăn thịt, ăn mạng sống của chúng sinh, là ăn thịt chính bản thân cơ thể mình vậy. Chúng sinh bao gồm cả động vật, thực vật, khoáng vật, vì chúng cũng giống y như chúng ta, đều có Phật tính và pháp tính, và đều là Phật vị lai. 
Chúng ta hiểu biết được tất cả chúng sinh trong sáu cõi luân hồi, trong đời quá khứ là cha mẹ, anh chị em, con cháu người thân của chính chúng ta. Vì vậy bạn không nên ăn thịt, ăn mạng sống của động vật, chúng sinh, mà còn phải cứu giúp cho tất cả động vật, chúng sinh, được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. Chúng ta không có khẳ năng để biết được các việc, các số kiếp trong đời quá khứ và vị lai, nhưng chư Phật Như Lai thì biết rất rõ điều này. Phật nói, A la hán chỉ mới biết được năm trăn đời quá khứ và năm trăm đời tương lai, khi biết được năm trăm kiếp quá khứ của mình, đã phải chịu quả báo luân hồi trong sáu cõi ba đường ác, thì sợ quá đến nỗi toàn thân toát ra mồ hôi máu. 
Tu hành các công đức bằng việc ăn trường chay, ăn trai tịnh là đúng, nhưng mà còn phải phóng sinh cứu giúp, giải thoát tất cả động vật, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Chúng ta quyết định cả cuộc đời này ăn trường chay, ăn trai tịnh. Tức là chúng ta ăn thiện, uống thiện, thân, khẩu, ý nghiệp của chúng ta cũng thiện, thì chắc chắn tướng mạo, tính đức của chúng ta cũng chính thiện, sức khoẻ ổn định, tinh thần sung mãn, thần sắc toả sáng, hào quang trong sáng, không bao giờ bị ốm đau, bệnh tật, được tăng tuổi thọ, tăng hiểu biết trí tuệ, công đức, phước báu. Cả đời bạn được hưởng cuộc sống trí tuệ cao đẳng, và luôn được tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững, tự giác học Phật tu pháp viên thành Phật đạo, quyết định trong một đời này, bạn đạt được thành tựu chứng đắc quả vị thành Phật Như Lai.  
Khoa học kỹ thuật công nghệ thông tin hiện nay, phát triển hiện đại cao, cũng đã nghiên cứu thành công rất nhiều thành tựu, phát minh mới hiện đại, giúp ích cho đời sống của chúng ta. Trong cơ thể của chúng ta chiếm khoảng 70% là nước, khi thân, khẩu, ý nghiệp của chúng ta thiện, tức là ăn thiện, uống thiện, tâm thiện, lời nói thiện, suy nghĩ thiện, việc làm cũng thiện, thì tất cả các tế bào phần tử nước trong cơ thể của chúng ta kết tinh rất hoàn hảo, đẹp mắt. Điều này giúp cơ thể của chúng ta bài tiết hết các chất cặn bã, hư hỏng, tế bào chết, bệnh tật, ra khỏi cơ thể của chúng ta. Điều đó giúp cho cơ thể chúng ta luôn trẻ đẹp, khoẻ mạnh, cường tráng, có sức đề kháng cao, không bị ốm đau, bệnh tật, tinh thần sung mãn, tăng tuổi thọ, tự giác học Phật tu pháp, tu hành các công đức, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật.
Chúng ta ăn trường chay, ăn trai tịnh, nhưng cũng không nên ăn các loại như tỏi, hành, hẹ và các loại có mùi hôi, mùi không thanh tịnh, ăn chúng lúc nóng thì sinh tham dục, ăn sống thì sinh nóng giận, do đó chúng ta cũng không nên ăn. Chúng ta ăn là do nghiệp, cũng là ăn vì đại chúng sinh khổ cúng dường. Chúng ta ăn những thức ăn chay, thanh tịnh cả về chất lượng và hình thức, ăn trường chay, ăn trai tịnh chân thật, là không có một chút hình dáng gì giống ăn thịt, ăn mạng của động vật, chúng sinh, chúng ta cũng không ăn. Vì sinh khởi tâm nhớ lại lúc trước chưa tu hành, liên tưởng tới lúc ăn thịt, ăn mạng động vật, chúng sinh, không tốt cho tâm thanh tịnh của chúng ta. Chúng ta biết động vật có Phật tính, thực vật, khoáng vật có pháp tính, Phật tính và pháp tính, cũng đều là một tính, cũng đều là Phật vị lai. Như vậy, chúng ta ăn trường chay thì có tội không? Xin thưa với các bạn, bạn ăn thực vật, khoáng vật, tức là ăn chay, ăn trường chay, cũng có tội nhưng bạn ăn chay, là vì tất cả chúng sinh khổ cúng dường, chúng ta biết không thể không ăn. Vì không ăn chay thì chúng ta cũng không thể tồn tại được, đây là cái tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác của chúng ta, là cái tội của chúng ta do thân thể sinh học của chúng ta cần phải ăn mới tồn tại và phát triển được. 
Nhưng trước khi ăn chay chúng ta cần phải niệm Phật cúng dường, niệm Phật hồi hướng, niệm Phật mười niệm, ý nói thoả thuận với chúng, hoà giải với chúng, vừa để giúp chúng ta, cũng là giúp tất cả chúng sinh mà nói rằng, sự việc ăn chay, ăn trai tịnh cũng là cái tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác của chúng tôi. Chúng tôi không thể không ăn, chúng tôi ăn chay là vì tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới khổ cúng dường, và giúp đỡ mọi người, chúng sinh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, thôi thì cũng là vì chúng tôi, và vì tất cả chúng sinh khổ, mà cam chịu để cho chúng tôi ăn trai tịnh, chúng tôi nhất quyết thề nguyện vì các bạn và vì tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, mà tinh tấn, rốt ráo học Phật tu pháp sớm viên thành Phật đạo. 
Khi chúng ta quyết tâm học Phật tu pháp, nhanh chóng có được thành tựu chứng đắc quả vị Phật Như Lai, sớm một ngày đắc đạo, thì chúng sinh bớt khổ đau, phiền não, bớt mê si, mờ mịt một ngày. Chúng ta nói như vậy và thân, khẩu, ý nghiệp của chúng ta cũng vậy, đồng nhất là một, thì họ cũng vì chúng ta và vì tất cả chúng sinh khổ mà vui vẻ, mãn nguyện, vì chúng ta, mà tiếp nhận lời đề nghị, thoả thuận hoà giải, họ cam tâm tình nguyện để chúng ta ăn họ, mà không có gì phải hối tiếc, thù hận oán tránh chúng ta nữa. Như vậy, bạn thử hỏi bạn ăn với tâm như thế thì đương nhiên cơ thể của bạn được tốt đẹp, mạnh khoẻ, tinh thần sung mãn, tăng tuổi thọ, cuộc sống được tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững, không ốm đau, bệnh tật, được hưởng tất cả những lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng. 
Điều 4: sám hối nghiệp chướng cúng dường chư phật như lai 
Tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, chính là tội lỗi do chúng ta trực tiếp tự gây ra, hoặc gián tiếp tổ chức, chỉ đạo, sắp đặt, sai khiếm mọi người khác, mọi chúng sinh khác, vi phạm pháp luật của Nhà nước, giới luật trong Phật giáo. Lỗi do vô ý hay cố ý, do cẩu thả, bất cẩn, lỗi trực tiếp hay gián tiếp mà chúng ta đã gây ra trong quá khứ từ vô thỉ kiếp và ngay trong hiện tại đời sống hằng ngày, thì đều là tội lỗi tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác. Do sự tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri, tà kiến, tự tư tự lợi, ích kỷ keo kiệt, ghen ghét đố kỵ, tự cao tự đại, sự phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, tham chấp vào những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng của chúng ta, mà tạo ra những tội lỗi xấu tà ác. 
Sáu căn của chúng ta khi tiếp súc với cảnh giới sáu trần sinh ra sáu thức, gây ra vô lượng vô biên tội lỗi luân hồi, trong đời hiện tại và nhiều đời trong kiếp quá khứ đến nay. Nhưng nguyên nhân chủ yếu là do tâm tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri tà kiến, ích kỷ keo kiệt, ghen ghét đố kỵ, tự tư tự lợi, tự cao tự đại, tham danh vọng lợi dưỡng, vinh hoa phú quý, tài, sắc, danh, thực, thuỳ, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Điều đó đã gây nên tất cả các tội lỗi, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, làm chướng ngại chúng ta trên con đường học Phật tu pháp. Nó làm cho chúng ta không thâm nhập vào được kinh tạng và không hiểu thấu Phật pháp, không thể tu học các pháp môn đến thành đạt như mong muốn, không hoàn thành được trách nhiệm, tâm nguyện. Tức là nó làm chướng ngại gây cản trở không cho chúng ta “niệm Phật tam muội”, niệm Phật đến công phu thành khối, lý nhất tâm bất loạn, “một niệm không sinh”. Thiền định không được sâu, không vào được cảnh giới tứ thiền thiên, bát thiền, không đạt đến được cảnh giới minh tâm kiến tính thành Phật, không khôi phục được chân như bổn tính, học kinh giáo thì không hiểu rõ, hiểu thấu triệt được ý nghĩa và chứng ngộ chính giác của từng câu, chữ, đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới trong kinh giáo. Nó cũng làm chướng ngại chúng ta không sinh khởi được tâm bồ đề bền vững, làm cho chúng ta không đủ điều kiện được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, thật là oan uổng, lãng phí công sức, vật chất, tinh thần, thật là đáng thương xót vô cùng. 
Tất cả các tội lỗi, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, phiền não, bệnh khổ, là nguyên nhân chính, khiến cho chúng ta phải chịu quả báo luân hồi, trong sau cõi ba đường ác, chịu mọi nỗi sống khổ cùng cực, không cùng tận, không biết đến bao giờ ngừng dứt, rất thê thảm, rất đáng thương xót vô cùng. Chúng ta sám hối nghiệp chướng bằng cách tu hành các công đức với 8.400 pháp môn, trong đó có pháp môn Tịnh Độ tông là pháp môn niệm Phật “Nam mô A di đà Phật”, là “tín nguyện trì danh”, “trì danh niệm Phật”, là cương lĩnh căn bản nhất của pháp môn. Đức Phật Thế Tôn tán thán A di đà Phật, là “quang trung cực tôn, Phật trung chi vương”, tức là vua trong mười phương ba đời chư Phật Như Lai, A di đà Phật là đức hiệu của cả mười phương ba đời chư Phật Như Lai, niệm A di đà Phật thì trong đó bao gồm tất cả mười phương ba đời chư Phật Như Lai, không thiếu sót một vị Phật Như Lai nào, bao gồm cả ba đại tạng kinh và mười hai giáo, đều quy về, hội tụ, thu gọn lại, thành sáu chữ hồng danh “Nam mô A di đà Phật”. Trong sáu chữ hồng danh là danh hiệu của đức Phật A di đà, và của tất cả mười phương ba đời chư Phật Như Lai, đều là đồng thể, pháp thân, tri kiến Phật, Phật tính, trí tuệ Phật, chân như bổn tính đều giống như nhau. Trong đó có đầy đủ mọi thứ lợi ích công đức, phước đức, trí tuệ cao đẳng, vô lượng vô biên, vạn đức, vạn năng. Để hàng phục và diệt trừ hết những tội lỗi, mà chúng ta đã tạo ra từ vô thỉ kiếp đến nay, một cách hiệu quả thẳng tắt nhất, giúp cho chúng ta học Phật tu pháp môn niệm Phật đạt đến cảnh giới viên mãn thành Phật Như Lai. Trong khoảng thời gian ngắn nhất, số lượng người, chúng sinh đạt được thành tựu chứng đắc quả vị giải thoát sinh tử luân hồi, trong sáu cõi ba đường ác nhiều nhất. Đây đúng là pháp môn tốt nhất, thù thắng nhất, chỉ cần chúng ta quyết tâm chân thật niệm Phật, “Nam mô A di đà Phật”, liên tục đến cùng, thì đương nhiên đạt được chân thật lợi ích công đức, trí tuệ cao đẳng, phát được bồ đề tâm bền vững, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Chúng ta có được thân người kiếp này, là do trong kiếp quá khứ hay kiếp trước, chúng ta đã tu được ngũ giới, thập thiện, đạt đến mức độ trung phẩm, thì kiếp này chúng ta mới được thân người. Chúng ta tu hành thọ trì năm giới, mười thiện, đạt được thượng phẩm thì được sinh lên cõi Trời, còn thọ trì năm giới, mười thiện đạt được hạ phẩm, thì được sinh ra ở cõi A tu la. Nhưng tất cả ba cõi thiện trên, vẫn trong sáu cõi luân hồi, bạn vẫn phải chịu nghiệp nhân duyên quả báo sinh tử luân hồi, theo các quy luật Tứ diệu đế, Mười hai nhân duyên, không biết đến khi nào ngừng dứt, để được giải thoát sinh tử luân hồi, thật đáng thương xót vô cùng. 
Tất cả các chính thiện pháp, là do tâm không thâm, sân, si, mạng, nghi, tà tri tà kiến sinh ra, còn tất cả các tà ác pháp, là do tâm tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri, tà kiến sinh ra. Như vậy, Phật pháp là chính pháp cũng là do nhân duyên sinh, nên chúng ta không được phân biệt, chấp trước, vọng tưởng vào các pháp thế gian, xuất thế gian, cái tôi, cái của tôi. 
Chúng ta cần buông bỏ các giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, để tâm chúng ta không bị vướng mắc vào bất cứ thứ gì, như những sự vật, sự việc, hiện tượng, trong vũ trụ nhân sinh này, đến mức “Phật pháp còn phải buông bỏ, huống hồ là phi pháp”. Tức là Phật pháp chúng ta cũng phải hiểu thấu và buông bỏ, vì là pháp do nhân duyên sinh, và cũng chỉ là pháp phương tiện thiện xảo, có tác dụng giúp chúng ta phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, được giải thoát sinh tử luân hồi. Nhưng khi chúng ta hiểu thấu Phật pháp rồi, thì cũng không cần đến các pháp nữa, cho nên Phật pháp chúng ta cũng không vướng mắc nữa, coi như là “vạn pháp đều không”, còn thực chất vạn pháp thì nó chỉ có tác dụng giúp cho tâm của chúng ta tu hành các công đức, đạt được tâm bồ đề thanh tịnh đến tịch diệt. Khi tâm chúng ta đạt đến tâm bồ đề thanh tịnh tịnh diệt, tâm của chư Phật Như Lai, thì Phật pháp chúng ta cũng không còn tác dụng, thì chúng ta cũng phải tự buông bỏ Phật pháp, không tham chấp vào nó nữa. Để tâm chúng ta được luôn vắng lặng, bình yên, thanh tịnh đến tịch diệt, tương ưng với tâm của chư Phật Như Lai, tâm vô thượng chính đẳng chính giác. 
Tâm bồ đề thanh tịnh đến tịch diệt sinh ra tất cả các chính thiện pháp. Pháp giới nhất chân, là cảnh giới của chư Bồ tát, vô trụ Niết bàn, cảnh giới của bốn mươi mốt đẳng cấp, do tâm chúng ta vẫn còn có vọng tưởng, đó là bốn mốt phẩm vô minh, còn khi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chúng ta đoạn hết, mất khoảng thời gian rất là dài, ba đại a tăng kỳ kiếp, thì chúng ta vào được cảnh giới tâm vô thượng chính đẳng chính giác, đại triệt đại ngộ, cảnh giới thường tịnh quang Phật Như Lai. 
Không phân biệt, chấp trước, là sự bình đẳng của mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, tất cả vũ trụ nhân sinh này, với chúng ta là một, là đồng thể, không phải là hai, không phải khác nhau, đều là chúng sinh, đều có Phật tính, pháp tính, đều là Phật vị lai. Bình đẳng cả về thể tướng, thể tính, sự vật, sự việc, hiện tượng, tất cả các pháp cũng là pháp bình đẳng, không phân biệt đây là người xấu tà ác, kia là người tốt chính thiện, không có tâm thiên lệch vào bên có, bên không, không được phân biệt, chấp trước đây là cái tôi, cái của tôi, đây là thân thể của tôi, đây là tiền tài của tôi, danh vọng lợi dưỡng, vinh hoa phú quý, tài, sắc, danh, thực, thuỳ của tôi, đây là người thân của tôi. Bạn phân biệt, chấp trước vào bản ngã,đó là những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, là sai rồi. 
Nhưng trong cuộc sống thì chúng ta cần phải phân biệt, chấp trước, do mọi người có tâm phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, nên chúng ta cũng phải phân biệt, chấp trước, vọng tưởng với họ. Để nhập thế hướng dẫn, truyền đạo, giới thiệu Phật pháp, để thương sót giúp đỡ mọi người phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Họ gọi đây là con người, chúng ta cũng gọi như họ là con người, họ gọi đây là Phật đường ta cũng gọi là Phật đường, họ gọi đây là người giàu, kia là người nghèo, thì chúng ta cũng gọi như họ đó là người giàu, đây là người nghèo, nhưng trong tâm chúng ta thì không có phân biệt, chấp trước, vọng tưởng Phật pháp. Chúng ta cần giữ trung đạo. 
Chúng ta tự giác học Phật tu pháp, thì nên cùng nhau lập lời thề nguyện, đứng trước tôn tượng đức Phật A di đà và hai vị Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Đại Thế Chí, cùng Tây phương tam thánh, lập lời thề nguyện từ nay trở đi con sẽ quyết tâm học Phật tu pháp, y giáo phụng hành, tuân thủ các giáo lý, đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới trong kinh giáo. Chúng ta xin thể nguyện sám hối tất cả các tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, tội lỗi, do con đã gây ra từ vô thỉ kiếp đến nay và trong đời này. Con sẽ không bao giờ tái phạm nữa, quyết tâm sửa chữa, thay đổi, tự làm mới tất cả những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, tư tưởng, đạo đức, lối sống, phong cách, hiểu biết, sao cho phù hợp, hoà đồng, đồng nhất, tương ứng đức tính của chư Phật Như Lai. Quyết tâm trong một đời này, tự giác học Phật tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A di đà Phật được công phu niệm Phật thành khối, lý nhất tâm bất loạn, được minh tâm kiến tính, khôi phục được chân tâm, trí thành tha thiết cầu nguyện được vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc, bất thoái thành Phật Như Lai. Chúng ta làm đến được như vậy, thì là sự chân thật sám hối những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác.
Bệnh khổ có ba loại, là bệnh khổ do sinh lý gây ra, thân bệnh do chúng ta ăn uống sinh hoạt hằng ngày, bị mất vệ sinh, bất cẩn gây ra. “Bệnh từ miệng vào, họa từ miệng ra”, họa cũng là bệnh, là tai nạn, biến cố cũng là bệnh sinh lý, do chủ quan mất cảnh giác, coi thường sự nguy hiểm, không chấp hành pháp luật, giới luật, do trong thân mạng của chúng ta phải chịu cái nạn đó, đó cũng là quy luật nhân quả. 
Bệnh oan nghiệp, là do oan gia trái chủ qua nhiều đời, nhiều kiếp đến nay, có oán cừu với bạn, đến để báo thù bạn, oán thù càng kết càng sâu, “oán thù nên giải, không nên kết”. Ví như người ta đến báo thù với chúng ta, chửi mắng chúng ta, lăng nhục, hãm hại chúng ta, thì chúng ta vẫn phải vui vẻ tiếp nhận, người ta đến hãm hại bạn đến nhà tan người chết, đến bạn phải bị tù trung thân, hay bị tử hình. Chúng ta cũng không được có tâm oán người trách trời, không có một chút tâm báo thù họ, nghĩ là chuyện này do trong mệnh của chúng ta phải chịu, hoặc do đời trước chúng ta đã hãm hại họ như vây, cho nên đến đời này, họ đến để đòi nợ chúng ta. Khi chúng ta vui vẻ tiếp nhận, coi như là việc này là để trả nợ cho họ, nợ của chúng ta với họ đến đây là xong hết, đời sau có duyên gặp lại thì vui vẻ, hoà hợp, giúp đỡ, thương sót lẫn nhau, thì là bạn rồi, đồng tâm, đồng nghiệp, cùng trí hướng. Chúng ta nghĩ như vậy, tâm của chúng ta liền được tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững, có được sự lợi ích công đức, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chúng ta bị hãm hại mà chết, thì cũng vẫn được vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc, bất thoái thành Phật Như Lai. Vì chúng ta đã có được bồ đề tâm bền vững và việc mà chúng ta đã làm, là y giáo phụng hành, đúng theo đạo lý, phương pháp mà chư Phật Như Lai đã dạy bảo, truyền đạo cho chúng ta. 
Chúng ta chân thật “tín giải hành chứng” được những giáo lý trong chính pháp Phật pháp như vậy, thì được chư Phật Như Lai, chư Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn tôn kính chúng ta, Thiên địa quỷ thần tôn kính chúng ta, nhân loại, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới tôn kính chúng ta. Vì chỉ có tâm của chư Phật Như Lai, mới làm được những việc chính thiện viên mãn tròn đầy như vậy. Nếu bạn có tâm hận thù oán trách, báo thù họ, thì bạn là phàm phu, người thông thường, ngay lập tức bạn sẽ bị đoạ lạc, luân hồi trong sáu cõi ba đường ác, thật đáng thương xót vô cùng. Vì chư Phật Như Lai cũng bị người ta phỉ báng, mà chư Phật Như Lai vì lòng đại từ đại bi vô hạn lượng, lòng thương sót mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, vô lượng vô biên không bờ mé, bình đẳng đến mức không có phân biệt chúng sinh chính thiện hay xấu tà ác, đúng sai, phải trái, nhân ngã thị phi. 
Tất cả chúng sinh đều được thương sót vô lượng vô biên như nhau, không có gì khác biệt, nên đã vượt qua được tất cả các giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng đó. Chư Phật Như Lai cũng phải tiếp nhận những thứ đó, thì chúng ta là đệ tử nhỏ của chư Phật Như Lai, thì có đáng gì, chúng ta cũng phải tiếp nhận tất cả lời người ta mắng, phỉ báng chính pháp Phật pháp. Chúng ta phải vui vẻ tiếp nhận, vì nó cũng có tác dụng làm tăng thiện duyên, thiện căn, công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, cũng như làm tiêu trừ tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác cho chính chúng ta. Đây cũng là phương pháp tu hành nhẫn nhục ba la mật của chúng ta, như vậy là họ có ơn với chúng ta, chứ không phải là sự oán thù, họ chủi mắng chúng ta hoan hỷ tiếp nhận, vì giúp chúng ta tu nhẫn nhục ba la mật, sám hối tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, cũng như việc tích tụ công đức, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, nuôi dưỡng tâm từ bi bác ái, bao dung độ lượng, giúp ích cho chúng ta học Phật tu pháp sớm viên thành Phật đạo. 
Trong Kinh Đại Niết Bàn có ghi lại câu chuyện, Bổn sư Thích Ca Mô Ni Phật chưa thể hiện là Phật Như Lai, Ngài còn là Bồ tát, Ngài ứng thân là một người tu hành, đang tu nhẫn nhục ba la mật trên núi. Trong lúc tu hành Phật pháp Ngài bị một viên quan tàn bạo, không nói chuyện đạo lý bắt được Ngài đang tu hành trên núi không xét xử, mà đem xử tử lăng trì, thật là đau đớn đến cùng tột, như là bị lửa lớn thiêu đốt cháy thân người vậy. Nhưng Ngài cũng không có một lời oán trách chửi mắng, không có tâm hận thù, oán trách, hay có tâm báo thù tên viên quan vô đạo tàn bạo kia, vì Ngài đang tu hành các công đức bằng lục độ, nhẫn nhục ba la mật, đối với Ngài đây là sự biết ơn, vì họ làm tiêu trừ tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác cho Ngài, giúp ích cho Ngài sớm tu hành các công đức đạt đến viên mãn viên thành quả Phật cứu cánh viên mãn. Ngài đối với tên quan tàn ác kia, Ngài không hận thù oán trách họ, mà ngược lại Ngài còn đáng thướng sót cho họ, do bị vô minh tiêu khiển chỉ đạo, bị nghiệp lực sai khiến, nên tên viên quan tàn bạo kia mới làm ra các việc xấu tà ác như thế. Quyết định là ác giả ác báo, bị đọa lạc vào A tỳ, địa ngục, nhận quả báo sống khổ đau đến cùng cực, như lửa lớn đốt cháy thân người, không biết đến ngày nào ngưng dứt, đáng thương xót vô cùng. 
Chúng ta không sám hối hết tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, thì nó sẽ làm chướng ngại, bất lợi trong việc cầu nguyện vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc. Chúng ta phải diệt trừ tận gốc các căn nguyên gây ra tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, là do tâm phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri, tà kiến, tự tư tự lợi, ích kỷ keo kiệt, ghen ghét đố kỵ, tự cao tự đại, tham danh vọng lợi dưỡng, vinh hoa phú quý, tài, sắc, danh, thực, thuỳ. Chúng ta tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, phát hiện được những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, để từ đó bằng sự tự tin, tin tưởng vào chính bản thân mình, và bằng nghị lực dũng khí nói ra những tội lỗi, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác đó, và tâm thề nguyện nói ra được là tôi đã biết tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác tội lỗi của tôi rồi, từ nay trở đi đến cuối đời này, tôi không tái phạm lỗi lầm, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác nào nữa, vĩnh viễn không làm nữa. Tức là chúng ta phải tận hình thọ sám hối những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác tội lỗi. 
Trong tâm chúng ta phải có “Giới Định Huệ”, giới định huệ là một, không hai, không ba, “ngoài không động tâm, trong không chấp tướng”, “cảnh tuỳ tâm chuyển”, “một niệm không sinh”, thường giữ gìn tâm bồ đề bền vững, sáu căn của chúng ta tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, chúng ta làm thế nào để nó không khởi tác dụng, không để lại ấn tượng, không dính bám vào bất cứ thứ gì, sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này. Vì tất cả đều là những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng. 
Điều 5: Tuỳ hỷ công đức cúng dường chư phật như lai 
Tuỳ hỷ công đức cúng dường chư Phật Như Lai, là một công việc mang lại cho chúng ta, cũng như tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, có được sự tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững, cũng như mang lại cho chúng ta có được lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng vô lượng vô biên. Tuỳ hỷ công đức cũng là sự cộng hưởng hạnh phúc, an lạc đến cực độ, tột cùng của sự hoan hỷ, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thấy được những điều mà người khác làm được, mà mình thì không làm được, người khác có được những điều hơn mình thì sinh tâm ghen ghét đố kỵ họ, từ đó nẩy sinh ý định hãm hại, phá hoại lợi ích của họ, nhưng không thể hãm hại hay phá hoại được điều tốt đẹp đó, không làm thay đổi được tất cả các việc đó. Vì điều đó là quy luật nhân quả, thiện nhân thì được thiện quả, ác nhân thì bị ác quả, không ai có thể làm thay đổi, thay thế, chịu thay cho vận mệnh của người khác được. Chúng ta do vọng tưởng, ghen ghét đố kỵ mà tạo ra những tội lỗi xấu tà ác, để rồi phải chịu những quả báo xấu tà ác đó, tự mình làm tự mình chịu, thật là đáng thương xót vô cùng. 
Chúng ta biết được người này đến hãm hại, phá hoại việc tốt của chúng ta, hay phá hỏng sự nghiệp thành đạt của cá nhân và hạnh phúc gia đình của chúng ta. Điều này không ai làm được, vì đây là quy luật nhân quả, chư Phật Như Lai, chư Bồ tát cũng không làm thay đổi được quy luật nhân quả của tất cả chúng sinh. Nếu người kia không đến phá hỏng, hãm hại bạn, thì bạn cũng không thể hoàn thành sự việc tốt đó. Cho nên nếu trong mệnh của mình được hưởng phước báu, thì người khác có đến phá hại, thì cũng không có gì liên quan đến việc của chúng ta có được hưởng thành quả đó. Vậy bạn biết được điều này, thì dù có người đến phá bạn, thì bạn cũng vui vẻ tiếp nhận, khi người kia hiểu ra đạo lý này, thì không những không có tâm ghen ghét đố kỵ, phá hoại, hãm hại bạn nữa. Mà ngược lại họ còn giúp bạn hết lòng, hết sức, để tuỳ hỷ công đức, chúc mừng, ủng hộ, thương sót, giúp đỡ cho bạn được hoàn thành các công việc tốt đẹp đó, theo đúng đạo lý, chính pháp Phật pháp. Điều đó mang lại rất nhiều thành tựu lợi ích hiểu biết trí tuệ, công đức, phước báu, mà người đến tùy hỷ công đức, chúc mừng, giúp đỡ chúng ta hoàn thành việc tốt đẹp đó, cùng với chúng ta được hưởng chân thật lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng là bằng nhau, không có gì khác biệt. 
Trong thực tế đời sống chúng ta quan sát thấy rất nhiều người có tâm ghen ghét đố kỵ, điều này nguyên nhân là do từ nhiều đời nhiều kiếp đến nay, khi mới sinh ra nó đã có sẵn những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác này, không ai dạy chúng ta, mà tự trong mỗi chúng ta đã vốn có sẵn. Bạn có thể quan sát một đứa trẻ, hai đến ba tuổi, khi còn rất nhỏ chúng đã có tâm ghen ghét đố kỵ, với một đứa được chia quà nhiều hơn, thì đứa được chia ít hơn sẽ sinh tâm ghen ghét đố kỵ, ích kỷ keo kiệt, tự tư tự lợi, tự cao tự đại, mà không có ai dạy chúng. Đây là đại phiền não có sẵn trong mỗi chúng ta, nên khi chúng ta biết và hiểu thấu điều này, thì trong cuộc sống đối nhân sử thế tiếp vật, tiếp sự việc, hiện tượng, phải biết tuỳ hỷ công đức, chúc mừng, tán thán, những sự vật, sự việc, hiện tượng của mọi người, mọi chúng sinh và mười phương ba đời chư Phật Như Lai, đều tuỳ hỷ công đức cúng dường. Để có được lợi ích trí tuệ, công đức thực sự chân thật viên mãn, để sám hối những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, ghen ghét đố kỵ này, và phát tâm giúp đỡ mọi người được viên mãn thành tựu học Phật tu pháp, chứng đắc đạo quả, trong một đời tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Như vậy khi chúng ta gặp được, nghe được các việc tốt lành, việc thành đạt, đắc đạo quả vị của các bậc thượng thiện trí thức, người dẫn đạo, đúng với chính pháp Phật pháp, thì chúng ta nhất định tuỳ hỷ công đức cúng dường, giúp đỡ họ hoàn thành thành đạt được việc tốt đẹp đó, giúp đỡ cho người đó, tu hành các công đức đạt đến viên mãn viên thành Phật đạo. Nhưng những việc tốt đẹp thành đạt, vui mừng đó, cần phải phù hợp, tương ứng với chân như bổn tính của chúng ta, cũng như của chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới. Tức là tương ưng với đức tính của chư Phật Như Lai, thì chúng ta tuỳ hỷ công đức cúng dường giúp họ, cũng chính là giúp mình có được những lợi ích công đức, trí tuệ chân thật nhất, đều được hưởng bình đẳng như nhau, không có gì khác biệt. 
Chúng ta biết tuỳ hỷ công đức cúng dường chư Phật Như Lai như thế nào, để có được lợi ích trí tuệ, công đức, phước báu chân thật nhất, đó là chúng ta phải biết quán tưởng luyện tâm, “trải sự luyện tâm”, bằng phương pháp quán tưởng, quán sát pháp thế gian và pháp xuất thế gian, có được việc tốt, hoan hỷ, phù hợp tương ứng với chân như bổn tính, đức tính của chư Phật Như Lai. Chúng ta tuỳ hỷ công đức cho họ, tán thán họ, giúp đỡ họ có được lợi ích trí tuệ, công đức chân thật, thì chúng ta cũng có được lợi ích trí tuệ, công đức chân thật đó, là bằng như nhau. Nếu chúng ta không có phương tiện, tài sản, vật chất, thì chúng ta cần phải vui mừng bằng cái tâm chân thành, trí thành cung kính nhất, để tuỳ hỷ công đức cho họ, thì công đức lợi ích trí tuệ đó, so với việc giúp đỡ bằng phương tiện, tài sản, vật chất, công sức, là hoàn toàn như nhau, bằng nhau không có gì khác biệt. Đây chính là sự chân chính tuỳ hỷ cúng dường chư Phật Như Lai. “Nhà Phật lấy từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa”, nhưng “từ bi nhiều họa hại, phương tiện xuất hạ lưu”. Điều này muốn nói chúng ta có lòng từ bi thì cần phải có hiểu biết trí tuệ cao đẳng.
điều 6: thỉnh chuyển pháp luân cúng dường chư Phật như lai
Thỉnh chuyển pháp luân, là thỉnh chư Phật Như Lai giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói và cũng chính là con đường của Bát chính đạo. Ký hiệu thỉnh chuyển pháp luân là bánh xe, hoa sen, chữ vạn.
Bát chính đạo, là bản kinh đầu tiên, mà chư Phật Như Lai, đức Phật Thế Tôn, Bổn sư Thích Ca Mô Ni Phật thuyết pháp cho năm anh em Kiều Trần Như, cùng chư thiên và phạm thiên, tại lộc uyển gần ba la nại, sau khi Ngài thành đạo dưới cội bồ đề, đây là tám phương pháp, để tu tập giải thoát khỏi mọi sự vướng mắc, khổ đau, phiền não, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, tâm vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri, tà kiến, tự tư tự lợi, ích kỷ keo kiệt, ghen ghét đố kỵ, tự cao tự đại, tham danh vọng lợi dưỡng, vinh hoa phú quý, tài, sắc, danh, thực, thuỳ. Bát chính đạo bao gồm có chính tri kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính tinh tấn, chính niệm, chính định, giúp ích cho chúng ta và tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, có được con đường, định hướng, đúng đắn, chính xác, trên con đường tu hành các công đức viên mãn thành đạo vô thượng chính đẳng chính giác.
Chính tri kiến là sự nhận thức đúng đắn về cuộc sống, hiểu thấu chân tướng của tất cả sự vật, sự việc, hiện tượng, vạn vật trong vũ trụ nhân sinh này, biết phân biệt đâu là chính tri, chính kiến, đâu là tà tri, tà kiến, để từ đó hiểu thấu Phật pháp, giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng chân thật. Tức là có được tuệ giác, để trong cuộc sống hằng ngày, đối người sử lý, tiếp vật, tiếp sự việc, hiện tượng, đúng theo đạo lý, phương pháp chính pháp trong Phật pháp. Nghĩa là chúng ta gặp việc ác không làm, mà còn hướng dẫn, khuyên bảo mọi người, bỏ tà quy chính, lánh dữ làm lành. Khi chúng ta gặp việc chính thiện, đúng đạo lý chính pháp, tương ứng với đức tính của chư Phật Như Lai, thì nhất định giúp đỡ, tuỳ hỷ công đức cho họ, có được thành đạt những lợi ích trí tuệ, công đức viên thành Phật đạo. Nếu bạn gặp được việc chính thiện mà không làm thiện, thì cũng như là bạn đã xấu tà ác rồi. Chúng ta cần phải hiểu rõ mọi sự việc, sự vật, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, đều có nguyên nhân sâu xa, đều có quan hệ đạo lý nhân quả, để từ đó chúng ta hiểu được tất cả đạo lý và làm đúng theo chính pháp trong Phật pháp. 
Chính tư duy là phát triển từ chính tri kiến, mà chính tư duy giúp chúng ta có được chân thật trí tuệ, công đức, tuệ giác, để tư duy những việc thiện, những việc giúp ích cho mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, một cách bình đẳng, không có phân biệt, đạt được lợi ích trí tuệ, công đức tốt nhất, là giúp ích và phổ độ tất cả chúng sinh tận hư không khắc các pháp giới, bình đẳng được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Chính ngữ là hình thành từ chính tri kiến và chính tư duy, đây là nói thân, khẩu, ý nghiệp của chúng ta, kết hợp đồng nhất với nhau thành một thể thống nhất, tức là thân, khẩu, ý nghiệp, của chúng ta được thanh tịnh, nói đúng sự thật, thật thà, thành thật, nói đúng lúc, đúng nơi, đúng sự việc, sự vật, hiện tượng, đúng nội dung yêu cầu, nói đúng lễ kính, lễ tiết, lễ độ, lễ phép, nói lời hoà nhã, hoà hợp, hiền hoà, từ bi bác ái, bao dung độ lượng, có lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng cho chúng ta, cũng như cho tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, “nhà Phật lấy từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa”. 
Chính nghiệp là hình thành từ chính tri kiến, chính tư duy, chính ngữ, tức là thân, khẩu, ý nghiệp phải thống nhất, kết hợp đồng nhất với nhau thành một thể, tức là thân, khẩu, ý nghiệp của chúng ta được thanh tịnh. Chúng ta cần tu “Giới Định Huệ”, “Giác Chính Tịnh”, để phá tâm tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri tà kiến, tự tư tự lợi, ích kỷ keo kiệt, ghen ghét đố kỵ, tự cao tự đại, phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, chúng ta cần phá trừ tận gốc các căn nguyên, gây ra tất cả các tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, khổ đau, phiền não của chúng ta, bằng cách tinh tấn, rốt ráo, chủ động, tích cực, tự giác học Phật tu pháp viên thành Phật đạo, “trí tuệ là sự nghiệp”, “Phật học là tuệ học”.
Chính mạng được hình thành từ chính tri kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp. Chúng ta biết huệ mạng quan trọng hơn nhiều so với sinh mạng, sinh mạng cũng là giả tướng, giả tạm, vô thường, nó chỉ tồn tại nhiều lắm từ lúc sinh ra cho đến khi chết đi, bị phân huỷ, chỉ được khoảng một trăm năm. Vì nó là cơ thể sinh học, vật lý, “phàm những gì có tướng, đều là giả hoặc là không”. Nhưng huệ mạng thì thật sự quan trọng, đó chính thật là chúng ta, đó là chân như bổn tính, Phật tính, trí tuệ Phật của chúng ta, cũng như của tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới. Chúng ta hiểu thấu những việc để nuôi sống sinh mạng vật lý sinh học, hoá học, hỗn hợp vật chất, như đất, nước, gió, lửa. Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta cần phải có những của cải, vật chất, tinh thần, tình cảm, thực phẩm, y phục, y dược, tiện nghi sinh hoạt để nuôi dưỡng bản thân. Nhưng cần nuôi dưỡng thân mạng của chúng ta bằng sự lao động chân chính do chính mình làm ra những vật chất đúng đạo lý chính pháp, chấp hành đúng những quy định pháp luật của Nhà nước và giới luật trong Phật giáo, thì đều được gọi là chính mạng. 
Chính tinh tấn, được hình thành từ chính tri kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, thì chính tinh tấn là sự quyết tâm, dũng mãnh, chủ động, tích cực, tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ các giả tướng, tự mình giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chứng đắc quả vị Phật Như Lai. Thành đạt một cách hiệu quả nhanh nhất, lợi ích công đức trí tuệ lớn nhất, tinh tấn tu hành viên mãn thành Phật Như Lai. Đây cũng chính là việc tự giác học Phật tu pháp, tinh tấn, liên tục, thường xuyên, không gián đoạn, tận hình thọ, y giáo phụng hành. Tất cả mọi sự chứng đắc, thành tựu nghiệp đạo, đều là do chính chúng ta tự giác tinh tấn tu hành các công đức mà có được, đó là lợi ích phước đức, công đức, trí tuệ cao đẳng vô lượng vô biên, tất cả những lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng đó, người khác không thể cho chúng ta được, mà cũng không thể lấy đi được, tự tu tự chứng, tự làm tự chịu, đó là quy luật nhân quả. 
Chính niệm, bao gồm chính tri kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính tinh tấn, thì chính niệm là “niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, niệm thí, niệm giới, niệm thiên”.
Chính định, được hình thành từ chính tri kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính tinh tấn, chính niệm, thì chính định chính là tam vô lậu học, đây cũng là thiền định, là “Giới Định Huệ”, “Giác Chính Tịnh”. Có nhiều tôn giáo và môn phái cũng tu định, nhưng định phải được sinh khởi từ bẩy chi phần trên, thì mới gọi là chính định trong Phật pháp. Định thì phải sinh huệ, huệ thì phải sinh tâm, sinh tâm từ bi bác ái, bao dung độ lượng, tâm đại từ đại bi, tâm chịu khổ và phổ độ bình đẳng cho mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, hiểu thấu Phật pháp và buông bỏ những giả tướng, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. Những người không dựa vào kinh giáo và các pháp môn trong Phật pháp, mà tự mình chứng đắc giác ngộ chính giác, thì gọi là đức Phật độc giác, còn những người dựa vào kinh giáo và các pháp môn trong Phật pháp, mà được chứng đắc quả vị giải thoát sinh tử luân hồi trong sáu cõi ba đường ác, thì được gọi là bậc Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, chư Phật Như Lai. 
Chúng ta biết Phật pháp là pháp bình đẳng, cho tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, tự giác học Phật tu pháp, cầu nguyện được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, tu hành viên mãn thành Phật Như Lai. Cho nên chúng ta, nhân loại trên thế giới, cũng như bất cứ một chúng sinh nào, tu hành bất cứ pháp môn nào, tôn giáo nào, nếu đạt được tâm có Định Huệ, và chứng được tâm thanh tịnh đến tịch diệt, thì đều được bình đẳng cầu nguyện được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, tu hành viên mãn thành Phật Như Lai. Phật giáo là nền giáo dục bình đẳng cho mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, đều được tự giác học Phật tu pháp như nhau, đều có được lợi ích trí tuệ, công đức, phước báu, phát được bồ đề tâm có đủ điều kiện được giải thoát khỏi sinh tử luân hồi trong sáu cõi ba đường ác. Tức là được giải thoát khỏi tất cả khổ đau, phiền não, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, Phật giáo có giá trị vĩnh viễn vượt qua thời gian, không gian, tức là vô lượng thọ Phật, tồn tại vĩnh hằng để giáo dục, giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, giúp đỡ mọi người, chúng sinh được giải thoát khổ đau, sinh tử luân hồi, được bất sinh bất diệt, tu hành viên mãn thành Phật Như Lai. 
Bát chính đạo là tám chi phần quan trọng nhất trong đại tạng kinh, số tám không phải là con số tuyệt đối, mà nó là đại biểu, vì thực tế có vô lượng chi phần trong chính đạo, đó là dải hạnh, đức hạnh, đức tướng, đức tính, tương ứng với chân như bổn tính của chúng ta, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, cũng như của chư Phật Như Lai, thì đó chính là con đường nghiệp đạo.
Chuyển pháp luân, ví như bánh xe lớn có trọng lượng lớn, có áp lực, sức mạnh lớn, giống như những chiếc xe lu đầm đường lớn, trong việc tu sửa đường lộ, san bằng tất cả những đất đá, vật liệu và những chỗ lồi lõm theo ý muốn của chúng ta. Trong Phật pháp chuyển pháp luân, bánh xe pháp thì nó có oai thần lực, khí lực, sức mạnh phá tan những khổ đau, phiền não, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, vướng mắc trong cuộc sống của chúng ta, để chứng được bồ đề tâm bền vững. Tức là chuyển toàn bộ từng câu, từng chữ, đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới trong cả ba đại tạng kinh và mười hai giáo vào tâm, vào a lại gia thức của chúng ta. Chúng ta cần y giáo phụng hành, kế nhập toàn bộ thân, khẩu, ý nghiệp vào trong ba đại tạng kinh và mười hai giáo. 
Điều 7: Thỉnh chư Phật như lai trụ thế cúng dường
Chúng ta cần tự giác học Phật tu pháp, sao cho đạt được thân, khẩu, ý nghiệp thanh tịnh, để thỉnh Phật trụ thế cúng dường. Tức là chúng ta dùng tâm chân thành, trí thành cung kính, để thỉnh chư Phật Như Lai trụ thế, cũng như cầu thỉnh tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát và các thiện tri thức trụ thế cúng dường. Giúp ích cho chúng ta bình đẳng được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. Chúng ta biết Phật có ba thân, là pháp thân, báo ứng thân, biến hoá thân, chúng ta thỉnh Phật Như Lai trụ thế trong hiện tại và tương lai hạ thế, để giúp ích cho chúng ta có được chân thật những lợi ích trí tuệ, công đức, phước báu. 
Thực tế hiện nay chư Phật Như Lai, cùng với các hàng Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát chưa trụ thế, hoặc có thì cũng rất hiếm thấy, không biết mời thỉnh ở đâu. Cho nên chúng ta trong số bốn chúng đệ tử Phật, cũng như trong số những thượng thiện tri thức, mời thỉnh những người nào có khả năng hiểu biết trí tuệ cao đẳng nổi bật tốt nhất, là người thực sự có tu học Phật pháp, thật thấu hiểu Phật pháp, thực sự y giáo phụng hành. Đó là những vị hoà thượng, pháp sư, thiền sư đắc đạo và những bậc thiện trí thức, đã phát được tâm bồ đề bền vững, được minh tâm kiến tính thành Phật, để giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, giúp đỡ, truyền đạo, giới thiệu “lý giải hành chứng” Phật pháp, bình đẳng cho chúng ta có được chân thật những lợi ích hiểu biết trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báu vô lượng vô biên. Đây chính là những thượng thiện tri thức, mà hiện tại chúng ta đang cần mời thỉnh để hoằng dương chính pháp, lợi lạc chúng sinh.  
Chúng ta đều hiểu thấu việc tiếp cận được Phật pháp, là điều rất khó khăn, mà sinh lòng tin ưa tự giác học Phật tu pháp lại càng khó khăn hơn, do nhân duyên, thiện căn, phước đức, công đức của chúng ta, cạn sâu không đồng nhau. Cho nên để có được sự tin ưa đến mức “tin sâu không nghi” Phật pháp, “tín nguyện trì danh”, tinh tấn, rốt ráo học Phật tu pháp, thì cần phải có đầy đủ nhân duyên, thiện căn, phước đức, công đức chín muồi, thì việc học Phật tu pháp chắc chắn có được chân thật lợi ích hiểu biết trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báu. Đây là một điều rất vui mừng là được hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm bền vững.
Thỉnh chư Phật Như Lai trụ thế cúng dường, là nhân duyên tốt nhất mang lại nhiều lợi ích trí tuệ cao đẳng, công đức, phước đức vô lượng vô biên. Chúng ta cần tinh tấn tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, để sớm viên thành Phật đạo. Nhưng chúng ta cần phải có thiện tri thức thật sự, minh sư, để vì chúng ta mà giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, giúp chúng ta hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ các giả tướng, những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, thì chúng ta có được việc tu hành Phật đạo tốt nhất, đúng phương hướng, đạo lý, cảnh giới của các pháp giới trong Phật giáo.
Chúng ta mời thỉnh thiện tri thức ở tất cả mọi nơi trên thế giới, đều được bình đẳng như nhau, không phân biệt, chấp trước, vọng tưởng. Miễn sao thiện tri thức đó, có được tâm bồ đề bền vững, bao trùm không gian và thời gian, vượt qua mọi danh giới ngăn cách, đạt đến cảnh giới sự lý vô ngại, hiểu thấu chân tướng của mọi sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này. Người thông đạt tất cả giáo lý trong Phật pháp, cũng như pháp thế gian và từ đó có được sự hiểu biết trí tuệ cao đẳng, “thể dung”, vạn đức, vạn năng, mà giúp ích được cho chúng ta có được chân thật những lợi ích trí tuệ cao đẳng, phước báu, công đức. 
Khi chúng ta chưa phát được bồ đề tâm bền vững, thì chúng ta hiểu biết Phật pháp đến mức độ nào, thì giúp ích cho mọi người, chúng sinh từng đó. Chúng ta làm công tác bảo hộ Phật pháp hay giới thiệu mời thỉnh những người thượng thiện tri thức thông đạt hiểu thấu Phật pháp, đến để tổ chức, an bài, giới thiệu Phật pháp, cho đại chúng biết đến Phật pháp, từ đó tin ưa Phật pháp, tự giác học Phật tu pháp, thì lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, của người thượng thiện tri thức, cũng như của người làm công tác tổ chức, bảo hộ, hỗ trợ, giới thiệu Phật pháp là hoàn toàn bình đẳng như nhau.
Chúng ta là đồng thể, đều là cảnh giới của Phật vô lượng thọ, đều có Phật tính và đều được thành Phật vị lai, đạo lý “một là tất cả, tất cả là một”. Như vậy, chúng ta trong đó có bốn chúng đệ tử Phật, xuất gia, tại gia, nam nữ, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, đều là đệ tử của đức Phật A di đà, cũng như mười phương ba đời chư Phật Như Lai, đích thực là một đạo tràng lớn, trong đạo tràng lớn đó, bao gồm chúng ta và tất cả chúng sinh tân hư không khắp các pháp giới. Chúng ta đang có được thân người hiện nay, là do kiếp trước đã có sự phát tâm tự giác học Phật tu pháp, đạt được trung phẩm của thập thiện nghiệp đạo.  
Điều 8: Thường tuỳ học chư Phật như lai cúng dường
Chúng ta thường tuỳ học chư Phật Như Lai cúng dường, với sức khoẻ tốt, tinh thần sung mãn, dũng mãnh, tinh tấn, rốt ráo, chủ động, tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Đức Phật Thế Tôn năm xưa khi còn trụ thế, Ngài vì chúng ta, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, mà từ bỏ, buông bỏ tất cả những gì mà Ngài được hưởng thụ, được chăm sóc, yêu thương, kính trọng, đó là ngôi vua, ngai vàng, cung điện, uy lực, danh vọng lợi dưỡng, vinh hoa phú quý, tài, sắc, danh, thực, thuỳ, gia đình, vợ con, cha mẹ, người thân. Ngài đều buông bỏ hết, mặc dù tất cả những thứ đó, Ngài đều yêu quý, thương yêu trân trọng nhất. Nhưng vì chúng ta, cũng như tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới đang còn khổ đau, phiền não, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri tà kiến, tự tư tự lợi, ích kỷ keo kiệt, ghen ghét đố kỵ, tự cao tự đạo, sinh lão bệnh tử. Mà Ngài buông bỏ tất cả những thứ đó, ra đi cầu đạo giải thoát sinh tử luân hồi, để tìm con đường đạo chân thật chính xác nhất, để có được “thể dụng”, vạn đức, vạn năng, có Phật pháp, để phổ độ, hoằng pháp lợi sinh. 
Ngài biết được giá trị lợi ích trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báu vô lượng vô biên, mà Phật pháp mang lại cho chúng ta, cũng như tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới. Chính vì sự cao quý của đạo pháp, tôn trọng, kính ngưỡng đạo pháp, Ngài xả bỏ cả thân mạng, vô ngã, để tự giác tu hành cầu đạo vô thượng chính đẳng chính giác, sau bốn chín ngày đêm thiền định liên tục dưới cội cây bồ đề, quán tưởng luyện tâm, trải sự luyện tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. Ngài lập ra ba thừa giáo, đó là thanh văn thừa, duyên giác thừa, bồ tát thừa, là pháp phương tiện thiện xảo, để làm công tác giáo dục những hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chính đẳng chính giác chân thật nhất, để hoằng pháp lợi sinh. 
Đức Phật Như Lai nói, “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. Chính vì thế, chúng ta phải thường xuyên tuỳ học theo đức Phật Như Lai. Ngày nay, chúng ta được hưởng nền khoa học kỹ thuật văn minh hiện đại, có các phương tiện hiện đại phong phú cả về chất lượng và số lượng, các đồ dùng như giấy, bút, mực rất là nhiều, tiện lợi đầy đủ phong phú thuận lợi, các thiết bị, phương tiện, như in sách báo, phát thanh, vô tuyến truyền hình vệ tinh, hệ thống mạng internet kết nỗi toàn cầu. Các phương tiện lưu giữ và lưu thông các thông tin dữ liệu rất hiện đại, như đĩa cd, vcd, dvd, và rất nhiều các phương tiện lợi ích khác, rất phổ biến, rất thông dụng, giúp đỡ cho chúng ta có được những lợi ích trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báu chân thật. Chúng ta được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, nhanh chóng có được kinh giáo, học Phật tu pháp như ý muốn, mà không phải khổ công tìm kiếm, không phải buôn ba khắp năm châu bốn biển, cầu giải vất vả, tốn kém vật chất, tinh thần, công sức, thời gian, như trước kia. 
Chúng ta chỉ cần ngồi trước máy vô tuyến hoặc máy vi tính, điệu thoại di động, truy cập kết nối mạng internet có thể khai thác được rất nhiều thông tin, kinh giáo đầy đủ các loại cần thiết giúp cho chúng ta tự giác học Phật tu pháp viên thành Phật đạo. Trong đó có ba đại tạng kinh, mười hai giáo và còn có rất nhiều bài giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, trong các video clip, hoặc các nhà sách trực tuyến trên mạng, giới thiệu cho chúng ta có những quyển kinh sách có giá trị, được các thượng thiện tri thức, pháp sư, thiền sư đắc đạo trên toàn thế giới, có kiến thức Phật pháp, hiểu thấu Phật pháp, chủ giảng, nội dung rất phong phú, lời cạn ý sâu, lời văn chân thành, thật thà, hiền hoà, khiêm tốn, giản dị, ý nghĩa thì dễ hiểu, rõ ràng, minh bạch, sâu sắc, lý giải hành chứng viên mãn. Giúp ích cho chúng ta có được chân thật lợi ích hiểu biết trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báu, vô lượng vô biên, đều được hội tụ trong kho lưu chữ trên hệ thống mạng internet ngày một phát triển phong phú, cả về nội dung, chất lượng, số lượng, tiện lợi, phù hợp với mọi căn cơ của chúng ta, trong thời đại hiện nay. Chúng ta có thể được nghe, được đọc nhiều lần, để hiểu thấu tường tận những lời dạy bảo, truyền đạo, giới thiệu Phật pháp với ba đại tạng kinh, mười hai giáo, để giúp cho chúng ta có được sự dũng mãnh, tinh tấn, rốt ráo, chủ động, tự giác học Phật tu pháp, thẳng tắt, hiệu quả, thành đạt, chứng đắc quả vị, tu hành đến viên mãn viên thành Phật Như Lai.  
Hoằng pháp lợi sinh, là việc vô cùng quan trọng, cho nên việc xả thân mạng để cầu đạo Phật pháp, thành bậc vô thượng chính đẳng chính giác, là chuyện bình thường. Như vậy, người tự giác học Phật tu pháp chân thật, hiểu thấu được Phật pháp, thì thân mạng đều có thể xả được, huống hồ là các vật ở ngoài thân, kể cả ngôi vua, người thân, thì không có gì khó khăn cả. Vì tất cả những sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, đều là giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, hoặc không thật có, mà chỉ là do chúng ta có sự phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, nên mới biến hiện ra sáu cõi, ba đường ác luân hồi, mười pháp giới. 
Chúng ta tự giác học Phật tu pháp, với mục đích được giải thoát sinh tử luân hồi, thành chư Phật Như Lai, thì phải thường xuyên quyết tâm dũng mãnh, tinh tấn, rốt ráo, tự giác tu học Phật pháp. Chúng ta thường tuỳ học Phật, để mỗi ngày, giờ, phút, giây, được hiểu thấu Phật pháp hơn, được lợi ích trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báu nhiều hơn trước, buông bỏ được những giả tướng, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, đạt được cảnh giới mỗi lúc một tăng tiến cao hơn, phát được tâm bồ đề bền vững, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Ngày nay, chúng ta có đại nhân duyên, thiện căn, công đức, phước đức, nhưng chúng ta chưa hay biết. Tất cả những kiến thức, ý nghĩa, đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới, trong ba đại tạng kinh, mười hai giáo, đều có đầy đủ, phong phú, đa dạng, để phù hợp với tất cả căn cơ của chúng ta, đều có thể thấy trong hệ thống mạng internet kết nối toàn cầu. Hệ thống internet có khả năng giúp ích cho chúng ta được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, và có ba đại tạng kinh, mười hai giáo trong đó. Như vậy, internet chính chân thật là một đạo tràng lớn nhất, tuyệt diệu nhất của chúng ta, nhân loại trên toàn thế giới, cũng như tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới. Trong hệ thống mạng internet có rất nhiều bài chú giải, giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, tuỳ thuộc vào mục đính, yêu cầu tra cứu kham khảo của chúng ta, ưa thích pháp môn nào, bài chú giải nào, thì học tập theo phương pháp đó. Nhằm hiểu thấu Phật pháp và chứng được tâm bồ đề thanh tịnh. 
Hệ thống mạng internet, vô tuyến truyền hình vệ tinh, khoa học kỹ thuật ngày nay, không ngừng phát triển hiện đại, là phương tiện, kho tàng lưu trữ và truyền tải thông tin dữ liệu, lưu truyền cả ba đại tạng kinh và mười hai giáo, cùng với tất cả kiến thức hiểu biết trí tuệ cao đẳng chân thật, như các bài viết, bài giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, đến mười phương, bất cứ nơi nào trên toàn thế giới. Điều đó giúp cho chúng ta dù ở bất cứ nơi nào, trên thế giới này, đều có thể tự giác học Phật tu pháp, tiếp cận được tất cả những điều mình cần thiết mong đợi và đạt được lợi ích trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báu chân thật nhất. Ngày nay sự phát triển của hệ thống mạng internet, truyền hình vệ tinh ngày một rộng rãi, chúng ta chân thật có đại phước báu, đại lợi ích hiểu biết trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báu từ việc truy cập thông tin qua mạng lưới internet, và xem truyền hình qua vệ tinh và các đa phương tiện hữu dụng khác. 
Chúng ta may mắn có cơ hội rộng mở, lớn nhất, được cứu giúp, được phổ độ, được giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, sáu cõi ba đường ác nhiều nhất, lớn nhất, chính là nhờ sự trợ giúp của khoa học kỹ thuật hiện đại, đó chính là hệ thống mạng internet và truyền hình vệ tinh. Internet trợ giúp cho chúng ta, chỉ cần ngồi bất cứ chỗ nào, nơi nào truy cập hệ thống mạng internet, bạn đều có thể lấy được các thông tin lữu liệu, được nghe, đọc các bài giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, kiến thức hiểu biết trí tuệ cao đẳng trong ba đại tạng kinh, mười hai giáo đều có, đều được truyền tải đến người đọc, người nghe. Việc sử dụng truy cập hệ thống mạng internet, thì dễ dàng, thuận lợi, nhanh chóng, hiệu quả, mà lợi ích trí tuệ, công đức, phước báu thì vô lượng vô biên, vô cùng thù thắng, không có một phương tiện nào so sánh bằng. Đây chân thật là phương tiện mang lại cho chúng ta, nhân loại trên toàn thế giới, chúng sinh khắp các pháp giới, có được lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng vô lượng vô biên, giúp ích cho chúng ta thường tuỳ học chư Phật Như Lai cúng dường. 
Đạo lý, “đi vạn ngày đường, đọc vạn quyển sách”, đó chính là việc quán tưởng luyện tâm, “trải sự luyện tâm”, chúng ta ngày nay không cần phải đi đâu tìm kiếm cầu đạo pháp, không cần phải khó nhọc tìm kiếm kinh giáo và cầu giải. Tức là việc “lý giải hành chứng” Phật pháp, đều có ở trước mặt chúng ta, tất cả đều ở trong tay chúng ta, rất thuận lợi, đơn giản, mà hiệu quả vô cùng to lớn, chỉ cần chúng ta chịu tự giác học Phật tu pháp, thì tất cả đều có thể thấy trong hệ thống mạng internet, như là cầu được ước thấy, vạn sự đều tuỳ ý mà được thành đạt mãn nguyện. Chúng ta biết được sự tiện lợi đó, thì cần phải biến những điều kiện thuận lợi, lợi thế đó, thành sức mạnh của chúng ta, để việc tự giác học Phật tu pháp viên thành Phật đạo, thẳng tắt, hiệu quả nhất. 
Mạng internet kết nối toàn cầu, giúp cho chúng ta được gần nhau hơn, đạt được nhiều lợi ích trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báu vô lượng vô biên. Hệ thống internet, là một phương tiện truyền tải, lưu giữ, biểu diễn, diễn giải, sao chụp hình ảnh và mọi thông tin, đều được đăng tải truyền đi khắp mười phương thế giới, đây là một phương tiện, phương pháp có được lợi ích trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báu lớn nhất, tốt nhất, nhanh nhất, trong thực tế đời sống hiện nay. Nhưng do chính chúng ta quản lý hệ thống mạng internet chưa được tốt, chưa có phương pháp, biện pháp hữu hiệu đắc lực, chưa có được nội quy quy định, chế tài tốt nhất, để quản lý các hành vi, vi phạm trong việc sử dụng truy cập hệ thống mạng internet. Chúng ta chưa làm tốt công tác quản lý giáo dục người sử dụng internet, sao cho đúng đạo lý, đúng chính Pháp, đúng mục đích, là vì lợi ích công đức, phước báu, trí tuệ cao đẳng của chúng ta, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, mà phục vụ, mà tuyên truyền, hoằng pháp lợi sinh. Chúng ta cần xây dựng, bảo vệ, hướng dẫn mọi người sử dụng hệ thống mạng internet với mục đích đạo đức hướng thiện, hiểu thấu được Phật pháp. Chúng ta không nên đăng tải những hình ảnh, nội dung, thông tin sai trái, vi phạm pháp luật Nhà nước, giới luật trong Phật pháp, những tà tri, tà kiến, khiến cho đại chúng hiểu lầm, hiểu sai lệch về Phật pháp, cũng như làm gia tăng những bất cập trong xã hội, nhân loại trên thế giới bất an. Đây cũng chính là trách nhiệm, nghĩa vụ của chúng ta, chưa làm hết trách nhiệm, bổn phận, sự nghiệp của chính mình.
Điều 9: Hằng thuận Chúng sinh cúng dường chư phật như lai
Hằng thuận hay tuỳ thuận chúng sinh cúng dường chư Phật Như Lai, là một điều rất quan trọng trong cuộc sống thực tế hằng ngày của chúng ta, đây là một phần tối quan trọng trong mối quan hệ sử lý, tiếp người, tiếp vật, tiếp sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này. Trong mối quan hệ này chúng ta cần dùng tâm bồ đề bền vững, trí thành cung kính, để hằng thuận chúng sinh, giúp ích cho mọi người, mọi chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, có được những lợi ích trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báu chân thật nhất, tuỳ hỷ, tuỳ thuận, giúp đỡ mọi người tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, tu hành các công đức, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Phật vị lai, bao gồm tất cả mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, trong đó có chúng ta, cho nên chúng ta hằng thuận, giúp đỡ, chịu khổ, vì lợi ích của tất cả chúng sinh mà làm, mà tự giác học Phật tu pháp, để có “thể dụng”, thông đạt, hiểu thấu Phật pháp, phát được bồ đề tâm bền vững, hoằng pháp lợi sinh. Chúng ta giúp ích và làm cho chúng sinh được vui sướng, thành đạt, giải thoát sinh tử luân hồi, thì chư Phật Như Lai vui mừng, chứng minh công đức, chúng ta tôn trọng, chân thành, trí thành cung kính, phụng sự chúng sinh, thì cũng chính là tôn trọng, trí thành cung kính đối với chư Phật Như Lai, không có gì khác biệt. Ngược lại chúng ta tôn trọng, trí thành cung kính chư Phật Như Lai, mà không tôn trọng, trí thành cung kính, phụng sự chúng sinh, thì điều này là đại bất kính đối với chư Phật Như Lai, vì tất cả đều được bình đẳng như nhau. Chúng ta làm cho chúng sinh vì ta mà khổ đau, phiền não, sát hại, thì Phật Như Lai cũng buồn thương không khác. Chúng ta hiểu thấu tất cả chúng sinh chính là tâm chư Phật Như Lai. Đây chính là đạo lý, tinh hoa trong Phật pháp, cũng là sự hiểu biết trí tuệ cao đẳng của nhà Phật, đây cũng là đạo lý vĩnh hằng, vĩnh viễn không thay đổi, đối với không gian và thời gian, đây cũng chính là đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới trong Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật, trong nhà Phật nói quang thọ, còn pháp thế gian gọi là thời không, không gian, trong quang thọ có pháp tính, linh khí, còn trong thời không, không gian chỉ là vật chất thuần tuý.
Xã hội ngày nay khi khoa học kỹ thuật phát triển hiện đại thuận lợi, phương tiện giao thông thuật lợi, sự bùng nổ thông tin truyền hình vệ tinh và trên mạng internet kết nối toàn cầu, là vô cùng sâu rộng. Chính sách mở cửa hội nhập quốc tế, thế giới ngày một tăng trưởng, về tất cả mọi mặt toàn diện của đời sống vật chất, tinh thần, tư tưởng, văn hoá giáo dục, đạo đức lối sống, phong tục tập quán, tôn giáo, đẳng phái, trình độ nhận thức không đồng nhau, chiến tranh, thù oán thì kiên cố, không ai chịu nhường ai. Cho nên khi chúng ta vừa tiếp xúc, giao kết thông thương, là nảy sinh rất nhiều những mâu thuẫn, nhiều quan điểm bất đồng, trái ngược nhau. Đây là do mặt tiếp xúc của chúng ta ngày nay rất sâu rộng, do quy luật mười tám giới, mà khả năng, trình độ, hiểu biết trí tuệ ứng phó và giải quyết những vấn đề đó, của chúng ta thì có hạn lượng, hạn chế. Dẫn đến chúng ta không thể trách khỏi những mâu thuẫn, xung đột, yếu kém thua thiệt, chiến tranh kiên cố, nghiêm trọng hơn là trong một con người cũng có nhiều những mâu thuẫn trái ngược nhau, trong gia đình thì vợ chồng, con cháu cũng bất hoà, trong cơ quan tổ chức, hội quần chúng xã hội, cũng có những mâu thuẫn bất đồng, quốc gia với quốc gia, cũng có mâu thuẫn bất đồng, làm nảy sinh đấu tranh, chiến tranh, tranh quyền đoạt lợi. 
Tất cả những thứ bất cập đó đều do tâm tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri, tà kiến, tâm vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, gây nên tất cả những khổ đau, phiền não, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác. Đây là nguyên nhân tạo nên các điều xấu tà ác pháp, ác nghiệp, để rồi chính chúng ta phải chịu nhận hậu quả, quả báo nghiệp chướng vô cùng ác liệt, nghiêm trọng không thể tưởng tượng được, phải chịu quả báo luân hồi trong sáu cõi ba đường ác, thật đáng thương xót vô cùng.
Chúng ta tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, để trong cuộc sống hằng ngày, có đủ hiểu biết trí tuệ, đối phó với những điều kiện sống, hoàn cảnh sống vô cùng phức tạp, mâu thuẫn, như vậy cho nên chúng ta phải học Phật tu pháp, để tự biết hiền hộ, bảo vệ, sửa chữa, thay đổi, tự làm mới chính bản thân mình, sao cho tương ứng, phù hợp với đức tính của chư Phật Như Lai. Chúng ta cần giữ trung đạo, biết hằng thuận chúng sinh, khi họ làm đúng đạo lý, chính pháp trong Phật pháp. Còn ngược lại thì chúng ta giữ trung đạo, không nghiêng về bên nào mà ở giữa, không nghiêng về bên có và cũng không nghiêng về bên không, chính thiện pháp Phật pháp thì chúng ta theo, còn xấu tà ác pháp thì chúng ta cũng không được bài bác. Chúng ta cần tôn trọng họ để giúp đỡ, truyện đạo, giới thiệu Phật pháp bình đẳng cho họ bỏ tà quy chính, chúng ta nắm chắc đạo lý như vậy, mà chúng ta trải qua ngày tháng tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững, có được đời sống trí tuệ cao đẳng, không phân biệt chính thiện hay xấu tà ác. Chúng ta làm được điều đó thì chính là những lợi ích công đức, phước đức, trí tuệ, còn nếu chúng ta không làm được, thì cũng là đã phát tâm rồi, nhưng do lực không đủ, để làm việc đó, nhưng chúng ta đã “phát ý viên thành, thì được viên mãn công đức”.
Trong thực tế đời sống có sự sai khác rất lớn về nhiều mặt, hình thức bên ngoài, thân tướng, đức tính, trình độ, hiểu biết trí tuệ khác nhau, tâm tư tình cảm suy nghĩ khác nhau, đạo đức lối sống, ngôn ngữ, phong tục tập quán khác nhau, nơi chốn cư chú khác nhau, cảnh giới của các pháp giới khác nhau. Tức là thân, khẩu, ý nghiệp của chúng ta đều khác nhau, nên việc xẩy ra nhiều mâu thuẫn và cạnh tranh là điều khó trách khỏi. Chính vì vậy, chúng ta phải tự giác tu học Phật pháp, hiểu thấu Phật pháp, phát được bồ đề tâm bền vững, để biết cách hằng thuận chúng sinh cúng dường chư Phật Như Lai, để có được những lợi ích trí tuệ cao đẳng nhất, giúp ích cho chúng ta được hưởng sự tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. 
Kiếp trước của chúng ta đã tu học Phật pháp, đạt được trung phẩm của ngũ giới, thập thiện, hoặc do kiếp trước chúng ta ở cõi Trời, làm chư thiên, thần tiên, do chỉ biết hưởng thụ phước báu, mà không chịu tu hành các công đức, phước báu, nên đến khi phước báu được hưởng thụ hết, thì bị đoạ xuống kiếp làm thân con người, chịu nghiệp báo như chúng ta hiện nay. Như vậy, chúng ta trong kiếp này, cần phải tự giác tu học Phật pháp, để giữ được kiếp người, chư thiên, và cao hơn nữa là được giải thoát sinh tử luân hồi trong sáu cõi ba đường ác, được vào cảnh giới của Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, thành chư Phật Như Lai.
Điều 10: Phổ giai hồi hướng cúng dường chư phật như lai
Chúng ta đã tự giác tu học Phật pháp và đang tu học phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện, với chín phẩm trước, có được chút lợi ích, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báu nào, thì chúng ta nhất định không cần hưởng thụ những lợi ích hiểu biết trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báu đó. Cuộc sống hằng ngày của chúng ta, là khiên tốn, giản dị, tiết kiệm, thanh đạm, lấy khổ làm thầy, lấy giới luật làm thầy, mà hồi hướng tất cả lợi ích, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báu đó, cũng như những công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, từ vô thỉ kiếp đến nay, do chúng ta tự giác học Phật tu pháp mà có được. Tất cả đều được hồi hướng đến toàn thể nhân loại trên thế giới, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, thế giới Tây phương cực lạc, y báo chính báo trang nghiêm thanh tịnh tịch diệt, cùng có được lợi ích hiểu biết trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báu, vô lượng vô biên đó. Để đến khi hết thời gian thọ mạng, cùng được vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc, đứng mà đi, ngồi mà đi, lúc ra đi không ốm đau, bệnh tật, biết trước giờ đi, sống mà đi, lúc ra đi chân thật về thế giới Tây phương cực lạc, với tướng lành rất đẹp mắt, không thể nghĩ bàn. 
Khi đã tự giác học Phật tu pháp, viên thành Phật đạo, chúng ta cần phải có trách nhiệm, tâm nguyện, hành nguyện với thân, khẩu, ý nghiệp của mình. Trong một đời này, có tu học Phật pháp và làm được bất cứ chút công đức, phước báu nào, thì đều tận hình thọ hồi hướng tất cả về thế giới Tây phương cực lạc, y báo chính báo trang nghiêm, cũng như giúp đỡ hồi hướng tất cả những lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng đó, đến mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, đều phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
 
 
 
Phần VII. Nội dung bộ kinh vô lượng thọ Phật
 
Kinh Vô Lượng Thọ Phật có mười sáu vị Bồ tát, làm thượng thủ, lớp trưởng ở tại gia, bao gồm ngài Hiền Hộ Bồ tát, Thiện Tư Duy Bồ tát, Huệ Biện Tài Bồ tát, Quán Vô Trụ Bồ tát, Thần Thông Hoa Bồ tát, Quang Anh Bồ tát, Bảo Tràng Bồ tát, Trí Thượng Bồ tát, Tịch Căn Bồ tát, Tín Huệ Bồ tát, Nguyện Huệ Bồ tát, Hương Tượng Bồ tát, Bảo Anh Bồ tát, Trung Trụ Bồ tát, Chế Hạnh Bồ tát, Giải Thoát Bồ tát. Đây là mười sáu vị Bồ tát, cũng là mười sáu cương lĩnh, làm biểu pháp cho toàn bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật. Chúng ta hiểu được ý nghĩa của mười sáu biểu pháp danh hiệu này, là hiểu thấu được toàn bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật. Theo thống kê thì ngày xưa thì việc học Phật tu pháp của người nam xuất gia là thành đạt “lý giải hành chứng” được Phật pháp, có được quả vị nhiều nhất, tiếp theo là đến nữ xuất gia, nam tại gia, nữ tại gia. Ngày nay thì ngược lại.
Thực tế hiện nay chứng thực được pháp môn Tịnh Độ tông, phù hợp với mọi căn cơ của chúng sinh, cũng như hiệu quả thành tựu đạt được vô cùng lớn, cả về số lượng và chất lượng, phẩm vị, cảnh giới rất cao, đạt được thành quả to lớn đó, một phần nhờ vào sự hỗ trợ của năm bộ kinh là Kinh A Di Đà Phật, Quán Kinh Vô Lượng Thọ Phật, Kinh Vô Lượng Thọ Phật, Kinh Hoa Nghiệm, Kinh Pháp Hoa. Nhưng đặc biệt kể đến là Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật này, đã xây dựng phát triển tạo được niềm tin ưa tự giác học Phật, tu hành các công đức bằng pháp môn Tịnh Độ tông, “trì danh niệm Phật”, “tin sâu không nghi”, “tín sâu nguyện thiết hành chuyên”, “niệm Phật thành Phật”, niệm Phật là nhân, thành Phật là quả, và đã phổ độ được vô lượng vô biên chúng hội cư sĩ nam nữ, tại gia, xuất gia, và nhiều chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới. Chúng ta quyết tâm tinh tấn, rốt ráo học Phật tu pháp, lựa chọn một môn thâm nhập, một bộ kinh thông đạt, thì tất cả các bộ kinh khác trong ba đại tạng kinh và mười hai giáo đều thông đạt. Cũng giống như công việc đào giếng lấy nước của chúng ta, thì cứ đào thẳng xuống đến độ sâu nhất định, thì nước trong bốn biển lớn chúng ta cũng có thể có được. Vì Phật pháp là đạo đồng, viên thông, dung thông, thống nhất kết hợp chặt chẽ, hiểu thấu được một bộ kinh giáo, thâm nhập “tín giải hành chứng” được kinh giáo, huân tu dài lâu, mới đạt được thành tựu quả vị giải thoát. Bộ kinh này chủ yếu phổ độ chúng cư sĩ tại gia là chủ yếu, còn chúng xuất gia thì lại càng dễ dàng hơn, không thể nghĩ bàn. 
Ngài Hiền Hộ Bồ tát là ở bản địa thế giới Ta bà, còn mười năm vị còn lại đều là ở thế giới phương khác đến, mười phương ba đời chư Phật Như Lai và tất cả các pháp giới chúng sinh, đều tham dự pháp hội giảng Tịnh Độ, Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật, mười sáu vị Bồ tát là cương lĩnh của toàn kinh, và danh hiệu của mười sáu chư vị Bồ tát mà chúng ta đều hiểu một cách tường tận, thì đại khái chúng ta đã nắm được nội dung, đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới trong Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật này.
1. Hiền Hộ Bồ tát là hộ pháp, hiền hộ thì phải hiền. Chữ hiền tiêu chuẩn rất cao, Ngài Hiền Hộ Bồ tát đứng ngang hàng với Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát, Phổ Hiền Bồ tát. Như vậy, Bồ tát Hiền Hộ mới có đủ năng lực hiền hộ, hộ trì Phật pháp. Tức là hiền hộ, bảo vệ Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật, sao cho chúng ta, cũng như chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, được bình đẳng tự giác học Phật tu pháp, và có được sự bình đẳng về lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng. Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật, là vua trong các kinh giáo, là những giá trị tinh hoa trong Phật pháp, hiền hộ phải bình đẳng cho mọi người, chúng sinh tận hư không khắp pháp giới học Phật, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, phát được bồ đề tâm bền vững, được minh tâm kiến tính thành Phật. Đây là đại thừa trong đại thừa, nhất thừa trong nhất thừa, ở cương vị cảnh giới dưới chư Phật Như Lai, đều là bậc đại hiền mới có thể có được đức năng hộ pháp và dẫn dắt, hộ trì cho chúng ta, cũng như cho tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới đi đúng hướng chính pháp trong Phật giáo, thành đạt viên mãn các công đức tu hành. Chúng ta chỉ cần đi theo một Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật này, là đầy đủ mỗi câu, mỗi chữ, đạo lý, cảnh giới của các pháp giới, trong đó đều đạt đến viên mãn vô lượng vô biên hiểu biết trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báu. 
Phật pháp mà đức Phật Thế Tôn đã nói trong suốt bốn chín năm, đều không vượt ra ngoài Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật này. Mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai nói ra pháp tạng vô tận, vô lượng vô biên, cũng không vượt qua ra ngoài Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật này. Chúng ta học Phật tu pháp, thông đạt thấu hiểu được Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật, thì tất cả các bộ kinh khác trong ba đại tạng kinh và mười hai giáo đều thông đạt thấu hiểu. 
Mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai, đều giảng pháp môn Tịnh Độ tông và Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật, nếu như có một vị chư Phật Như Lai nào, giảng pháp môn Tịnh Độ tông, giảng Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật này. Thì tất cả các vị Bồ tát ở mười phương thế giới, đều đến tham dự pháp hội này, làm trang nghiêm đạo tràng, đến làm chúng ủng hộ, ý này rất sâu rộng, chúng ta từ từ đi thể hội “tín giải hành chứng” được giáo lý. 
Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật, là giảng nói về danh hiệu của mười sáu vị Bồ tát, cũng chính là cương lĩnh của toàn bộ kinh, mười sáu danh hiệu bồ tát, mà chúng ta đều hiểu thấu, minh bạch, thực chứng, thì chúng ta đã đại ý lĩnh hội được nội dung, đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới trong Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật. Hiền hộ Phật pháp cần phải đúng sự lý, chính pháp trong Phật pháp. Bồ tát Hiền Hộ là dạy bảo cho chúng ta biết tự hộ trì cho chính bản thân mình, sao cho tâm của chúng ta luôn thanh tịnh đến tịch diệt. 
Ngày nay muốn tìm người biết nghe lời là khó, vì thầy giáo cha mẹ, lãnh đạo nói bạn không nghe, không làm theo. Bạn chỉ làm ra vẻ phục tùng, để đối phó, bằng mặt chứ không bằng lòng, cho nên rất khó dạy bảo, bạn phải học một cách chân thành, chịu tuân thủ, biết lắng nghe, và phải tập trung toàn tâm vào một việc, đối với tất cả các sự vật, các sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này. Bạn cần để tâm vào một chỗ, dùng một tâm làm việc, thì việc gì cũng xong, cũng hiểu được thông đạt, vì ít vọng niệm, tạp niệm, thì hiểu biết trí tuệ thêm tiến bộ. Ngày nay do các hệ thống vô tuyến truyền hình vệ tinh, hệ thống mạng internet, báo chí, truyện, tiểu thuyết, mang tính bạo lực, sắc tình lục dục, những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, làm cho người xem, nhất là giới trẻ bị tiêm nhiễm rất nghiêm trọng, họ nghe, xem, nhìn, học nhiều những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác rồi, thì cha mẹ, thầy cô, lãnh đạo rất khó dạy bảo, internet và vô tuyến truyền hình vệ tinh, trong đó cái gì cũng có, không thiếu bất cứ thứ gì, những điều xấu tà ác nhiều hơn những điều tốt đẹp chính thiện trong Phật pháp. Chúng ta nên biết cách hiền hộ chính mình, tức là không nên xem vô tuyến truyền hình vệ tinh, báo chí, nghe đài, truy cập mạng internet với nội dung không cần thiết, thì không cần xem, những thứ không cần biết, thì không nên biết, ít việc, ít chi phối thì tốt, ít vọng niệm, tạp niệm, để giữ gìn tâm thành tịnh đến tịch diệt. 
Bạn nói cả đời bạn vất vả là vì ai, vì cái gì, nhưng đến lúc mạng chung, hết giời gian thọ mạng, thì bạn cũng không mang được bất cứ sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này đi cùng, vì tất cả những thứ đó đều là giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng. Do đó lúc bạn ra đi, thì chỉ có nghiệp báo do nhân duyên thiện ác, mà bạn đã tạo ra theo mình, nếu nhân duyên bạn đã tạo ra là nhân duyên chính thiện, thì được quả báo kiếp sau được chính thiện, được làm con người hay chư thiên cõi Trời, hoặc được giải thoát sinh tử luân hồi ra ngoài sáu cõi ba đường ác. Còn bạn tạo ra nhân duyên xấu tà ác, thì quả báo kiếp sau là xấu tà ác, bị đoạ lạc vào ba đường ác, trong sáu cõi luân hồi, thật là đáng thương xót vô cùng. 
Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật, chính là thầy giáo tốt nhất, là thượng thiện tri thức của chúng ta, và cũng chính là A di đà Phật đại từ đại bi, vì chúng ta, mà giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, trong suốt bốn mươi chín năm, đã nói rõ được chân tướng của tất cả mọi sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, đều là giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng hoặc là không có. Bạn học Phật tu pháp thì bạn là đệ tử của Phật A di đà, và bạn được tất cả mười phương ba đời chư Phật Như Lai, cũng như tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, đều tôn kính bạn ba phần. Vì tất cả chư Phật Như Lai ở mười phương thế giới, chúng sinh khắp các pháp giới, đều tôn kính đức Phật A di đà, thì cũng phải tôn kính đệ tử của đức Phật A đi đà. 
Chúng ta tự giác học Phật tu pháp biết được việc chính thiện nên làm, thì nhất định chúng ta đi làm, còn việc xấu tà ác, không nên làm, thì nhất định chúng ta không nên làm, đó là bạn biết nghe lời chư Phật Như Lai, y giáo phụng hành, tu hành các công đức đạt đến viên mãn viên thành Phật đạo. Khi chúng ta chưa buông bỏ được những giả tướng, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, thì chúng ta chỉ chuyên tu tập một pháp môn thâm nhập, khi nào sự hiểu biết trí tuệ cao đẳng, phát được bồ đề tâm bền vững, thì mới học rộng nghe nhiều. Do hoàn cảnh hiện tại không tốt nên bạn rất dễ bị mê hoặc, vướng mắc bởi những cám dỗ, cạm bẫy xấu tà ác đó, người mà bị mê hoặc, vướng mắc là người bình thường, người không bị mê hoặc, có hai loại, một là đần độn, ngu dốt, hai là các vị thượng thiện tri thức đã được giải thoát khỏi tất cả khổ đau, phiền não, những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, phát được tâm bồ đề bền vững, được minh tâm kiến tính thành Phật, đủ điều kiện được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, đến đó chúng ta được học rộng nghe nhiều. Chúng ta khéo giữ ba nghiệp thân, khẩu, ý nghiệp thanh tịnh đến tịnh diệt, khéo hiền hộ chính mình, khỏi những ô nhiễm. 
Chúng ta biết Điện Thiên Vương thờ thần Hộ Pháp, dạy bạn hộ pháp chính mình, Phật pháp không có một chút gì mê tín, Phật pháp phát triển đến mức nghệ thuật cao độ, đó chính là sự hiểu biết trí tuệ cao đẳng, giáo học của Phật pháp, không phải cần dùng lời nói diễn tả ý nghĩa, nội dung, sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, mà chỉ cần dùng hình ảnh tôn tượng cũng diễn tả biểu đạt được hết ý nghĩa, đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới, những tinh hoa chính pháp trong Phật pháp. 
Bồ tát Di Lặc có hình tướng là cái bụng to, là biểu pháp tượng trưng cho tâm lượng lớn, “tâm bao thái hư, lượng khắp các kháp giới”. Tâm lượng của bạn có bao dung độ lượng, thì mới có đủ tư cách, điều kiện, thâm nhập bước vào cửa nhà Phật, tự giác học Phật tu pháp, miệng luôn nở nụ cười, miệng cười đón người, điều đó thể hiện sự nhân từ bác ái, từ bi hỷ xả, sinh tâm bình đẳng tướng an vui, tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. 
Đông Phương Trị Quốc Thiên Vương có danh hiệu là biểu pháp, trị quốc là giữ gìn quốc gia, làm thế nào bạn hộ trì, quản lý, bảo vệ, phát triển được chính mình, gia đình hạnh phúc, sự nghiệp của bạn thành đạt, xã hội an định, thế giới hoà bình, hợp tác, tập trung dân chủ, đoàn kết, thống nhất, phát triển văn minh, hiện đại, bình đẳng cùng có lợi. Điều này thể hiện trên tay Ngài cầm cây đàn tì bà, có một sợi dây, bạn phải làm thế nào, để chỉnh sợi dây đến mức độ vừa thích hợp, căng thì đứt, trùng thì không kêu, phải vừa đủ độ, thì đàn mới thể hiện được âm thanh, bản sắc, tinh hoa âm hưởng tốt đẹp, dung hoà với người nghe. Ngài dạy bảo cho chúng ta trong cuộc sống phải làm được việc đối nhân xử thế tiếp sự vật, sự việc, hiện tượng, đến đúng mức vừa vặn thích hợp, phù hợp, hiền hoà, trung dung, trung đạo, công bằng, bình đẳng, không phân biệt, chất trước, vọng tưởng.
Nam Phương Thiên Vương gọi là tăng trưởng, đức hạnh, công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ, lòng từ bi bác ái, bao dung độ lượng của chúng ta mỗi năm, tháng, ngày, giờ, phút, giây, ngày càng tăng trưởng thành đạt viên mãn. Phật pháp luôn cầu tiến bộ, tăng trưởng, đoàn kết, thống nhất, hoà hợp, dung hoà, bình đẳng, luôn đứng ở đầu thời đại, để chỉ đạo, truyền đạo, giới thiệu chính pháp Phật pháp. Phật pháp bình đẳng giúp đỡ cho thời đại, cho tất cả mọi người có được chân thật lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, có được hưởng cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. Ngày nay Phật pháp bị hư hại nhiều, là do chúng ta không làm hết trách nhiệm, nghĩa vụ, không nói rõ những tinh hoa giáo lý chính pháp trong Phật pháp cho đại chúng hiểu thấu, học tập làm theo, mà ngược lại để đại chúng hiểu lầm, đến mức hiểu sai đi chính pháp trong Phật pháp. Chúng ta người đi sau phải vượt hơn người đi trước, để dẫn dắt, lãnh đạo thời đại, truyền đạo, giới thiệu chính pháp Phật pháp, giúp ích cho tất cả mọi người được hưởng chân thật những lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng. 
Tây Phương Thiên Vương, là quản mục, dạy chúng ta phải biết xem người khác nhiều hơn, xem sở trường, điểm mạnh, tư tưởng, đạo đức, lối sống, phong cách, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, đúng chính pháp trong Phật pháp của mọi người, để chúng ta học hỏi, làm theo. Chúng ta xem thấy những yếu điểm, những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác của mọi người, để chúng ta sửa chữa, thay đổi, tự làm mới tư tưởng, đạo đức, phong cách, hiểu biết của chính mình, có được những tính đức chính thiện, sao cho tương ứng với tính đức, dải hạnh, của chư Phật Như Lai. Trên tay Ngài cầm một con rồng hoặc một con rắn, biểu thị sự biến hoá khôn lường, đó là nhân tình thế thái thay đổi, biến hoá, liên tục, sự lý biến hoá không ngừng, còn bên tay kia Ngài cầm hạt minh châu, hạt minh châu là bất biến, vô nhiễm. Điều đó dạy cho chúng ta trong cuộc sống hằng ngày biết cách sử lý, tiếp người, tiếp sự vật, sự việc, hiện tượng, cần nắm chắc được những nguyên tắc, đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới chính pháp trong Phật giáo. Tức là chúng ta sống trong một thế giới luôn luôn biến hoá, thay đổi không ngừng, liên tục, khôn lường, chúng ta cần phải nắm chắc được nguyên tắc, đạo lý bất biến, chúng ta giống như hạt minh châu bất biến. Tức là chúng ta cần giữ gìn tâm bồ đề bền vững, chúng ta bảo con rồng, con rắn, tức là nói cảnh vật, môi trường bên ngoài, luôn biến đổi, biến hoá, chuyển cảnh giới theo hạt minh châu, theo tư tưởng chính tri, chính kiến của chúng ta. Chúng ta bảo nó thay đổi theo chúng ta, không thể để cho nó làm thay đổi, chỉ đạo, chi phối chúng ta. Chúng ta làm được như vậy thì đã giữ gìn được tâm bồ đề bền vững thành công, thật là cao minh.
Bắc Phương Thiên Vương, là đa văn thiên vương, bảo bạn nghe nhiều chứ không bảo bạn nói nhiều, vì khi tâm chúng ta còn có những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, còn có tâm tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri, tà kiến, tự tư tự lợi, ích kỷ keo kiệt, ghen ghét đố kỵ, tự cao tự đại, tâm phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, thì không nên nói nhiều, nếu bạn nói nhiều, thì nói ra những điều không đúng theo đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới chính pháp trong Phật pháp. Lời nói đó không chân thành, cho nên bạn cần phải nghe nhiều, xem nhiều, những điều mà người khác nói, như nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, của những bậc thượng thiện tri thức, người dẫn đạo có bồ đề tâm bền vững, có hiểu biết trí tuệ cao đẳng, truyền đạo, giới thiệu Phật pháp, giúp ích cho chúng ta, được bình đẳng phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Đến khi chúng ta có được bồ đề tâm, hay được minh tâm kiến tính thành Phật, thì mới được nói nhiều, nói ra vạn pháp tất cả đều đúng theo chính pháp trong Phật pháp. Đó chính là tâm bồ đề bền vững sinh ra vạn pháp, đó chính là tâm thanh tịnh tịch diệt, thì tất cả những điều mà chúng ta nói ra, đều phát xuất tự nhiên, đúng đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới chính pháp trong Phật pháp. 
Pháp thế gian nói: “Đọc vạn quyển sách, đi vạn ngày đường”. Bạn đọc sách sử, thì bạn biết được những vấn đề, sự kiện, như sự thành bại, thịnh suy của một quốc gia dân tộc, một thời đại, nhân loại trên thế giới, trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Sự nghiệp của một con người, một gia đình, một tổ chức xã hội, đều có nguyên nhân thành bại, theo các nguyên tắc, đạo lý nhất định. Tức là bạn nắm được vấn đề, sự kiện, nguyên tắc, đạo lý thịnh suy, sự hiểu biết trí tuệ giống như dòng lịch sử của nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng và nhân loại trên toàn thế giới, chảy trong tâm hồn của chúng ta, cũng như trong suốt chiều dài của lịch sử nhân loại, từ đó chúng ta đúc rút những kinh nghiệm, bài học, đạo lý, phương pháp, nguyên tắc vận dụng có chon lọc, chuyển hoá những vấn đề trọng tâm, tinh hoa của dòng lịch sử trong nước và thế giới. Để từ đó xây dựng phát triển trình độ hiểu biết trí tuệ, hoà hợp những nền văn hoá giáo dục, mọi mặt đời sống văn hoá xã hội, an ninh chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật, theo hướng thế giới đoàn kết thống nhất hoà bình, hợp tác phát triển bình đẳng cùng có lợi. Chúng ta đọc kinh giáo, học Phật tu pháp, chúng ta có được hiểu biết trí tuệ cao đẳng, để giải quyết vấn đề, và có năng lực, đạo lý, phương pháp giải quyết hiệu quả tốt nhất các vấn đề, nẩy sinh trong cuộc sống. Trên tay Ngài cầm là cây rù, là để phòng ngự ô nhiễm, phòng tâm ô nhiễm, phòng tinh thần, tư tưởng, đạo đức, phong cách, hiểu biết trí tuệ, khỏi bị những ô nhiễm bởi môi trường, hoàn cảnh sống, cũng như ô nhiễm bởi tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, sự phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, sự tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri, tà kiến. 
Tất cả những pho tượng được thờ đều có hàm nghĩa, biểu pháp tượng trưng rất sâu sắc, tinh tế, giản dị, trí tuệ, đang dạy bảo cho chúng ta hằng ngày. Chúng ta được hưởng lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chân thực từ Phật pháp, kinh giáo cũng dạy bảo cho chúng ta điều đó, thể hiện qua những danh hiệu, hình ảnh tôn tượng chư Phật Như Lai, chư Bồ tát, danh hiệu là biểu pháp, là cương lĩnh học tập của chúng ta, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới. 
Mười sáu vị Bồ tát làm thượng thủ ở tại gia, trong Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật này, là huyết mạch của toàn bộ kinh. Danh xưng Hiền hộ chánh sĩ, khai sĩ, đại sĩ, đại hiền là tôn xưng với Bồ tát, không được gọi là đại sư, vì danh xưng đại sư, là tôn xưng đối với chư Phật Như Lai. 
Trong Tịnh Độ tông, tổ sư của Tịnh Độ tông đến khi hết thời gian thọ mạng, thì được vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc, tu hành viên mãn được bất thoái thành Phật Như Lai, thì đến lúc đó được gọi là đại sư. Danh xưng đại sư đối với tổ sư của Tịnh Độ tông, là do mọi người bình đẳng công bằng bầu chọn, thì mới được gọi là đại sư. Các tông phái khác, thì không được, vì do đời tổ tổ chuyền nhau, nên không được gọi là đại sư. Phật pháp do tổ sư Tịnh Độ tông phát ra cùng với mười phương ba đời chư Phật Như Lai đều giống nhau, giúp ích cho mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, bình đẳng được vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc, bất thoái thành Phật Như Lai. Sau khi viên tịch, thì được người thế gian công bình, bình đẳng toàn thiên hạ tập trung dân chủ, đoàn kết, thống nhất, dung hoà mà chọn ra vị tổ sư và phải được tất cả mọi người công nhận mới được gọi là đại sư. Hiền hộ chính là biết tự trọng và biết bảo vệ yêu quý mình, biết tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp và buông bỏ những giả tướng, tu hành các công đức, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
2. Thiện Tư Duy Bồ tát, dạy bảo chúng ta quan trọng ở chữ thiện, chính là sự biết ơn báo ơn, thường tư duy “trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường”. Quốc gia hộ trì bạn, cha mẹ sinh thành và nuôi dạy bạn, thầy cô giáo dạy bảo bạn, chúng sinh thì giúp bạn có được cơm ăn, áo mặc và những vật dụng cần thiết hằng ngày cho bạn, trong ơn nghĩa Tam Bảo có đầy đủ cả bốn trọng ơn. Bạn phải luôn nhớ đến tất cả chúng sinh khổ, thì tâm từ bi bác ái, bao dung độ lượng mới sinh khởi được, chúng ta phải sớm thành tựu nghiệp đạo, phải tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, sớm có được thành quả giải thoát một ngày, thì những chúng sinh khổ sẽ sớm một ngày được phá mê khai ngô, lìa khổ được vui, sớm được giải thoát luân hồi.  
Phật pháp là nền văn hoá giáo dục hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chí công vô tư, chí thiện, thương sót, giúp đỡ chúng ta bình đẳng được hưởng những lợi ích hiểu biết trí tuệ cao đẳng, công đức viên mãn vô luợng vô biên. Phật giáo là học thuật không phải là tôn giáo, không phải triết học, bất cứ tôn giáo nào cũng được bình đẳng tự giác học Phật tu pháp, vì Phật pháp là nền giáo dục hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chí thiện, chí công vô tư, giác ngộ chính giác. Bạn tín ngưỡng tôn giáo của bạn, nhưng bạn tự giác học tập nền giáo dục Phật pháp, để hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, tu hành các công đức, phát được bồ đề tâm bền vững, được minh tâm kiến tính thành Phật. Bạn sẽ được hưởng chân thật những lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng và được hưởng cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. Ví như bạn với thượng đế là quan hệ cha con, còn bạn với đức Phật A di đà là quan hệ thầy trò sư đạo, bạn sẽ là người con ngoan của Thượng Đế, và là người học trò giỏi của đức Phật A di đà, tuyệt đối không bảo bạn bỏ tín ngưỡng tôn giáo của bạn. Phật pháp là giúp đỡ chúng ta, nhân loại, chúng sinh đều được chung sống hoà bình, đoàn kết thống nhất, hợp tác, phát triển, bình đẳng cùng có lợi. 
Phật pháp là pháp bình đẳng giúp ích cho chúng ta được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Phật giáo giúp cho đời sống sự nghiệp của mỗi người chúng ta đều được thành đạt, gia đình hạnh phúc, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, quốc gia giầu mạnh, thế giới hoà bình, đoàn kết, thống nhất, hợp tác, bình đẳng cùng có lợi. Chúng ta cần có công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng chân thật, thì mới khiến mọi người khâm phục, tâm phục, khẩu phục, tôn kính, y giáo phụng hành, biết nghe lời truyền đạo, giới thiệu Phật pháp và chân thật học tập làm theo. Bạn vì mọi người, những chúng sinh khổ đau, phiền não, mà tinh tấn tự giác học Phật tu pháp, y giáo phụng hành, để sớm khôi phục được chân như bổn tính, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Đức Phật Như Lai nói, “chúng sinh diêm phù đề khởi tâm đọc niệm, niệm nào cũng đều là tội lỗi”, khởi tâm đọc niệm đều với cái tâm tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri, tà kiến, tự tư tự lợi, ích kỷ keo kiệt, ghen ghét đố kỵ, tự cao tự đại, những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, tham đắm vào những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, tâm phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, mê si, mờ mịt, tổn hại người mà chẳng lợi mình, thì làm sao mà không có tội lỗi. Nhưng chúng ta biết được tội lỗi, sai lầm của mình, mà biết sửa chữa, thay đổi, tự làm mới tất cả những điều xấu tà ác đó, để trở thành tâm chính thiện, biến đổi tâm phiền não, thành tâm bồ đề thanh tịnh bền vững, tu hành đến viên mãn thành Phật Như Lai. Thế gian nói, tổn hại người mà lợi mình, thì không phải không đúng, vì cái lợi đó bạn đạt được trước mắt thì ít thôi, nhưng sau này nhận quả báo ở tam đồ, bị đoạ lạc vào ba đường ác, thì vô cùng khổ đau ác liệt, thật đáng thương xót vô cùng. Chúng ta làm tổn hại người, nhất quyết là không có lợi cho mình.
Chúng ta đang được hưởng công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, do chúng ta đã tu được ở kiếp trước, và ngay trong hiện tại kiếp này, đời này, thì chúng ta có tu hành các công đức, phước báu, hiểu biểt trí tuệ nữa không. Bạn được hưởng công đức, phước báu, mà không tiếp tục tu hành các công đức, phước báu, mà còn tạo tội nghiệp, thì phước báu đó tiêu hết rất nhanh, đến khi thọ chung hết thời gian thọ mạng, thì bạn lại phải đọa lạc, chịu quả báo luân hồi trong sáu cõi ba đường ác, thật đáng thương xót. Đây được gọi là “tam thế oán”, đời trước chúng ta tu hành các công đức, phước báu, đến đời này được hưởng công đức, phước báu đó, và lại còn tạo tội nghiệp, thì công đức, phước báu đó hết rất nhanh, đời sau đọa lạc.
Chữ thiện là thiện trong thế gian và thiện trong Phật pháp, là rất khác nhau, thiện trong thế gian là các việc thiện trong đó có tình chấp, chấp trước, phân biệt, vọng tưởng rất nặng, nó giống như việc trao đổi. Ví như tôi làm giúp bạn việc này, thì bạn phải trả công cho tôi, hoặc bạn phải giúp tôi việc khác tương ứng, và cái thiện đó là vì cái tôi, khởi tâm động niệm, lời nói, suy nghĩ, việc làm, tất cả cũng là vì cái tôi, cái của tôi. Vì lợi ích của tôi, vì tiền của, người thân của tôi, tức là bạn chấp trước vào cái tôi, và cái của tôi, cái tôi chính là tội lỗi, tự tư tự lợi, ích kỷ keo kiệt, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác. Như vậy, chữ thiện của pháp thế gian là suy nghĩ, lời nói, việc làm, là thân, khẩu, ý nghiệp thiện. Tức là thiện mà quả báo đạt được là ở ba đường thiện, trong sáu cõi luân hồi, tuy bạn được hưởng rất nhiều phước báu ở cõi Người, cõi Trời, cõi A tu la, những đến khi phước báu hưởng hết, thì bạn vẫn phải bị đoạ lạc vào ba đường ác, phải chịu nhiều khổ đau cùng cực, thật đáng thương xót vô cùng. 
Chữ thiện trong pháp xuất thế gian, Phật pháp là việc thân, khẩu, ý nghiệp của chúng ta đều chính thiện, mà quả thiện là được giải thoát khỏi sáu cõi ba đường ác luân hồi, được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ được những giả tướng, tu hành các công đức, phát được bồ đề tâm bền vững, được minh tâm kiến tính thành Phật. Trong nhân gian có câu, “người không vì mình, thì trời chu đất diệt”, mọi người nghe thấy cho là đúng, nhưng thực ra không phải vậy, người mà vì mình thì đúng là con người, kiếp sau bạn vẫn phải đến sáu cõi luân hồi, ba đường thiện hưởng phước báu, đến khi hưởng hết phước báu thì liền bị đoạ lạc vào ba đường ác, chịu nhiều khổ đau cùng cực, không biết đến bao giờ ra khỏi. Còn người mà không vì mình, làm tất cả các việc chính thiện, vì lợi ích của mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, mà không một chút tạo tác, không để lại một chút ấn tượng, không điều kiện, thì đây là chữ thiện trong Phật pháp nói đến, làm thiện mà không một chút tạo tác. Tức là việc giúp đỡ bình đẳng cho mọi người, nhân loại trên toàn thế giới, chúng sinh khắp các pháp giới, là việc rất tự nhiên, không điều kiện, không một chút giả dối. Không để lại ấn tượng, là bạn làm giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh, mà không có một ý niệm được đền ơn, không mong cầu một chút lợi ích công đức, phước báu gì cho mình. Coi đây là việc của mình phải làm, cũng là tránh nhiệm của chính mình vậy. Tức là chúng ta làm tất cả những việc chính thiện, là vì lợi ích công đức, phước báu của mọi người, chúng sinh tận hư không kháp các pháp giới, trong đó có chúng ta, công tư lưỡng lợi, cũng được lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn. 
Chúng ta thọ trì đọc tụng kinh giáo, giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói. Thọ là những điều Phật dạy, Phật nói, từng câu, chữ, đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới, Phật đã thuyết giảng, thì chúng ta cần tiếp nhận toàn bộ, tin sâu không nghi, thông đạt “lý giải hành chứng” Phật pháp. Trì là bạn phải làm được, giữ gìn không để mất, không để biến dạng, bạn quyết định tuân thủ. Diễn nói là làm ra tấm gương tốt nhất, đúng đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới chính pháp trong Phật pháp, làm được tấm gương tốt nhất, cho mọi người, chúng sinh nhìn vào tin tưởng, học tập, làm theo và được thành đạt. 
Thiện tri thức của bạn là người, mà trong lòng bạn tôn trọng nhất, kính ngưỡng nhất, thì đó chính là thiện tri thức của bạn, bạn học tập với họ, nhất định sẽ được thành công, bạn nhất định sẽ thành đạt và giỏi hơn thầy, nhất định bạn sẽ học Phật tu pháp đạt đến viên mãn viên thành Phật đạo. Người thiện tri thức của bạn, là người không cần phải có danh vọng lừng lẫy, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, mà phải là người bạn yêu quý kính trọng, tin ưa nhất, người mà giảng nói cho bạn nghe đủ thứ, bạn thấu hiểu, tin tưởng, lĩnh hội chân thật, “tín giải hành chứng” học tập, làm theo được tất cả những điều chính thiện mà người thầy đã chỉ dạy bạn. Bạn đương nhiên nhận được thành quả như mong muốn, thành quả là học Phật thành Phật. Bạn đi bái họ làm thầy, mà thầy nói bạn không nghe, không làm theo, bạn bằng mặt không bằng lòng, như vậy là bạn đã lừa thầy diệt tổ, vì thầy có sự truyền thừa của thầy, hướng lên trên mà nói, bạn đã lừa dối cả chư Phật Như Lai, tội này rất nặng. 
Trong xã hội ngày nay có người làm thầy, giảng đạo, giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, cho người ta nghe, cũng giảng kinh thuyết pháp đến nỗi hoa trời rơi dụng, hay đến nỗi khiến người ta tán thán, chúc mừng, học tập, làm theo, thu được chân thật lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng. Nhưng bản thân người thầy thì một chữ trong kinh giáo, cũng không làm được đến chân thật. Bạn nói tin Phật, tin Phật khó lắm, có người sống bẩy mươi, tám mươi năm, giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, mà vẫn chưa tin Phật, vì tin Phật thì những gì Phật nói, Phật dạy bảo, truyền đạo, giới thiệu Phật pháp, như từng câu, từng chữ, đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới trong kinh giáo, bạn phải hiểu được “Tín Nguyện Hạnh”, y giáo phụng hành, thấy được thật tướng của tất cả mọi thứ trong vũ trụ nhân sinh này. Bạn phải làm được đến đúng 100% y thuyết tu hành và không được phép vi phạm pháp luật, giới luật, không được phép mắc sai lầm, luôn cảnh giác, giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, tự sửa chữa, thay đổi, tự làm mới những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, không được tái phạm và giữ gìn tâm thanh tịnh đến tịch diệt. Chúng ta làm được như vậy, mới được gọi là bạn đã thật sự tin Phật. Tin Phật, là cội nguồn sinh tâm tinh tấn, rốt ráo học Phật, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Vạn Phật Văn Kinh, đều là đức tính của chính chúng ta vậy, đức tính không cùng tận, và cũng là đức tính tu hành của chính chúng ta, khi niệm những danh hiệu của chư Phật Như Lai, chư Bồ tát là niệm chính bản thân mình, vì trong chúng ta cũng như tất cả chúng sinh khắp các pháp giới đều có Phật tính giống nhau và đều được bình đẳng tự giác học Phật tu pháp đến viên mãn thành chư Phật Như Lai. Bạn chỉ cần niệm bốn chữ hồng danh “A di đà Phật”, là đã bao gồm tất cả mười phương ba đời chư Phật Như Lai đều đầy đủ, cũng như đầy đủ tất cả những đức tính, tương ứng với chính chân như bổn tính của chúng ta, cũng như chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới. Chúng ta “niệm Phật, thành Phật”, niệm Phật đến công phu niệm Phật thành khối, lý nhất tâm bất loạn, từ một ngày cho đến bẩy ngày liên tục, thì nhất định được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, tu hành viên mãn thành Phật Như Lai.
3. Huệ Biện Tài Bồ tát, là ngôn ngữ, phương tiện giao tiếp quan trọng nhất, giữa người với người, thứ nhất là đức hạnh, thứ hai là ngôn ngữ. Bạn có biện tài, thì cần phải có hiểu biết trí tuệ cao đẳng. Nếu bạn có biện tài, mà không có hiểu biết trí tuệ cao đẳng, thì tạo tội nghiệp rất nặng, sẽ nói sai đi chính pháp trong Phật pháp, “năng ngôn hoạt đạo, nói lời thị phi, mê hoặc lòng người”. Tà tri, tà kiến, làm ảnh hưởng xấu tà ác đến lòng người trong xã hội, nhân loại trên thế giới, chúng sinh khắp các pháp giới.
Phật nói thời kỳ mạt pháp, tức là thời kỳ này, “tà sư nói pháp, nhiều như cát sông hằng”, Phật pháp truyền đến ngày nay, đã gần ba nghìn năm trong Phật pháp cũng có người tốt xấu, phải trái, đúng sai, chính thiện tà ác lẫn lộn, không thể nói tất cả đều là người tốt, chính thiện, nhưng chúng ta khẳng định những giá trị tinh hoa của nhà Phật, những lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chí thiện, chí công vô tư, đã mang lại giúp ích cho chúng ta, nhân loại trên thế giới, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, có được chân thật những tinh hoa giáo lý, đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới chính pháp trong Phật giáo, thể hiện thiết thực trong đời sống hằng ngày của chúng ta, được hưởng sự tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. Bạn phải có hiểu biết trí tuệ cao đẳng, thì mới nên có biện tài, tức là bạn cần tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, thì những gì bạn nói ra, để dẫn đạo, truyền đạo, khuyến đạo, giới thiệu chính pháp trong Phật pháp, mới có người nghe, sinh tâm tôn trọng, tin ưa Phật pháp, và phát tâm tự giác học Phật tu pháp, tín nguyện hạnh, y giáo phụng hành, tín giải hành chứng những giáo lý trong Phật pháp, hiểu thấu Phật pháp, như vậy bạn mới có đủ năng lực, khả năng, để giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, giúp ích cho mọi người, chúng sinh khắp các pháp giới.
4. Quán Vô Trụ Bồ tát, là nói bạn đã và đang tự giác học Phật tu pháp, luôn phải tự hỏi xem mình, quán sát mình đã đạt được thành tựu gì, tức là bạn hiểu thấu Phật pháp và buông bỏ được tất cả những giả tướng hết chưa, bạn đã phát được bồ đề tâm bền vững chưa, để có đủ điều kiện được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc chưa. Bạn phải nắm thật chắc, giữ gìn bằng được bồ đề tâm bền vững, nếu bạn chưa nắm được chắc chắn điều kiện được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, mà nói là chắc chắn, thì đó là đại vọng ngữ, nói dối người, dối mình, tội đó rất nặng, chắc đoạ a tỳ, địa ngục. Quán là quán sát thế gian, chứ không bảo bạn quan sát, xem xét, nhìn thế gian, tưởng tượng, vì như thế là bạn rơi vào tâm ý thức. Cũng như người tham thiền, tham cứu, chứ không gọi là nghiên cứu. Quán và tham là trạng thái tự nhiên, tuỳ văn nhập quán, không dơi vào tâm ý thức, không rơi vào sự tưởng tượng, nhớ nghĩ, suy tưởng, đóng kịch. Tâm ý thức, tức là sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, tạo ra sáu thức, lưu lại ấn tượng rất sâu, do sự tác dụng của a lại gia thức, chúng ta khi tai nghe thấy tiếng, khởi tâm tham ái, gây ra cảm giác vui buồn, được mất, khổ đau, phiền não, lo lắng, buồn chán, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác. 
Quán vô trụ hay tham thiền quán sát, là khi bạn tự giác học tập thâm nhập, khế nhập, lĩnh hội kinh giáo, không để lại ấn tượng, không phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, đối với tất cả các sự vật, sư việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này. Bạn đều không để lại ấn tượng, như việc ăn uống sinh hoạt, không để lại ấn tượng, không phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, thì tâm của bạn liền được vô trụ. Tâm vô trụ mới tương ứng với pháp tính, tương ứng với chân tướng của tất cả sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, vì chúng đều là giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng hoặc là không có. Quá khứ bất khả đắc, hiện tại bất khả đắc, vi lai bất khả đắc. Cái tâm năng đắc chẳng thể được, vì tất cả các pháp đều do duyên sinh, nên nó cũng là không có thật, đều là do tâm vọng tưởng biến hiện ra sáu cõi luân hồi, ba đường ác và mười pháp giới. 
Phật nói, “Phật pháp còn phải buông bỏ, huống hồ là phi pháp”, pháp là do duyên sinh, pháp cũng là không, ngay “thể” pháp cũng là không, mà pháp chỉ là pháp phương tiện thiện xảo, chỉ có tác dụng khi chúng ta chưa được hoàn toàn giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, đại triệt đại ngộ minh tâm kiến tính thành Phật. Đến khi chúng ta, cũng như tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới thành chư Phật Như Lai, thì Phật pháp cũng không còn, không còn tác dụng đối với chúng ta. Chúng ta trong cuộc sống đối nhân sử thế, tiếp sự vật, sự việc, hiện tượng, vạn pháp đều là tuỳ duyên, là tự do, tự tại, sao cũng được, có cũng tốt, không có cũng tốt. Tức là chúng ta không cần quan tâm đến quá khứ, hiện tại, và tương lai, những vấn đề đã, đang, và sẽ xẩy ra điều gì, đối với chúng ta cũng được, không quan tâm, tâm bạn liền được tự do, tự tại, thanh tịnh. Bạn không nên có một chút ý niệm, vui buồn, được mất, lấy bỏ, đúng sai, phải trái, thật giả, tốt xấu, chính thiện tà ác, đối với tất cả các pháp, không lấy không bỏ, không được không mất, không tăng không giảm, luôn giữ tâm trung đạo. Đó chính là bạn đã được tâm vô trụ, tức là bạn buông bỏ được tất cả những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, phân biệt, vọng tưởng, chấp trước, tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri tà kiến, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, mà không dính bám, vướng mắc vào tất cả mọi thứ sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này. Để giữ gìn tâm bồ đề bền vững biến hiện ở khắp các pháp giới, nhưng không trụ vào bất cứ thứ gì, cảnh giới của các pháp giới nào, mà có mặt tại khắp các pháp giới. 
Vô trụ chính là cảnh giới của Niết Bàn, công phu vô trụ đạt đến cực điểm, là đại Niết Bàn, đây là cảnh giới thiền định rất sâu. Tâm bạn có Định phải có Huệ, tức là vô trụ thì phải sinh tâm, sinh tâm cũng phải vô trụ, sinh tâm và vô trụ là một, không hai. Bạn sinh tâm giúp đỡ mọi người, chúng sinh, được bình đẳng phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, phát được bồ đề tâm bền vững, được minh tâm kiến tính thành Phật. Bạn phát tâm chịu khổ thay cho mọi người, mọi chúng sinh, “phát y viên thành, thì viên mã công đức”. Tại sao bạn phát tâm độ tha, nhưng phải giữ được định tâm vô trụ, vì mọi thứ trong vũ trụ nhân sinh này, đền là giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, không có thật. Do đó dù bạn có bận công việc đến mấy đi nữa, thì tâm của bạn vẫn giữ được thanh tịnh đến tịch diệt. Chúng ta phải biết cách quán sát, tất cả mọi sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, để trải sự luyện tâm, luyện tâm bồ đề tâm bền vững, tu hành các công đức đạt đến viên mãn thành bậc vô thượng chính đẳng chính giác.
Cách quán tưởng trải sự luyện tâm, tức là quán tưởng tâm vô trụ, sinh đức tính đại từ đại bi, là việc quán tưởng giúp đỡ cho mọi người, chúng sinh tận hư không khắc các pháp giới, bình đẳng được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. Chúng ta quán tưởng luyện tâm, phát tâm chịu khổ thay cho mọi người, chúng sinh trong lục đạo luân hồi, đều được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, được giải thoát sinh tử luân hồi. Nhưng thực tế thì không có người nào, chúng sinh nào được độ, không có người nào, chúng sinh nào hết khổ đau, phiền não, vì chúng ta có chân thật phát nguyện như vậy, để luyện tâm bồ đề bền vững, nhưng không thể làm được việc đó, đây là quy luật nhân quả, “nhân duyên quả báo, chân thật bất hư không sót mẩy trần”. Chúng ta muốn chịu khổ đau thay cho họ, nhưng cũng không thể thay thế được, chư Phật Như Lai cũng không làm được việc này.  
Chúng ta quán tưởng luyện tâm, phát đại từ bi tâm, nếu điều bạn phát tâm thề nguyện được ứng nghiệm tương ứng với những gì bạn đã phát tâm thề nguyện. Tức là một mình bạn được chịu mọi khổ đau, phiền não, những tội lỗi, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác cho họ, để mọi người, mọi chúng sinh được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, thành đạt, bình yên bền vững. Điều đó cũng chính là sự vui sướng, hạnh phúc đến tột cùng của chúng ta. Nhưng thực ra dù bạn có phải chịu nỗi sống khổ đau, phiền não đến cùng cực đó, thì bạn đã cam tâm tình nguyện làm, và bạn đã hiểu thấu Phật pháp, phát được bồ tâm bền vững. Đây là việc tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, quán tưởng luyện tâm, trải sự luyện tâm kim cang, tâm bồ đề bền vững.
Tu “Giới Định Huệ” hay “Giác Chính Tịnh”, phá tâm tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri, tà kiến. Tức là tâm chúng ta có Định Huệ, giác mà không mê, phá tan tất cả sự tham đắm, vướng mắc trong cuộc sống trần gian. Chúng ta hiểu thấu Phật pháp, luôn giữ tâm biết ơn đền ơn, “trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường”, tâm chúng ta phát ra là tâm đại từ đại bi, luôn nghĩ đến cái khổ, cái mê si, mờ mịt của chúng sinh, mà thương sót giúp đỡ mọi người, nhân loại, chúng sinh, được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, giúp đỡ không điều kiện, như việc giúp đỡ người thân yêu của mình, và chính mình vậy. Điều này phá tâm sân hận, thù hận, vì biết mình và tất cả chúng sinh bao gồm cả động vật, khoáng vật, thực vật với tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, với chúng ta, đều là một, không hai. Chúng sinh hữu tình có Phật tính, còn chúng sinh vô tình, thực vật, khoáng vật có pháp tính, Phật tính và pháp tính, đều là một tính, và tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới đều là chư Phật Như Lai trong tương lai. 
Cuộc sống của chúng ta đang bị cảnh giới bên ngoài dụ dỗ, chi phối, sắp đặt, ô nhiễm, “tâm tuỳ cảnh chuyển”, làm cho tâm chúng ta bị mê si, mờ mịt. Nhưng chúng ta học Phật tu pháp, hiểu thấu được mọi thứ trong vũ trụ nhân sinh này, đều là giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng hoặc là không có. Do đó khi chúng ta hiểu thấu được chân tướng sự thật này, thực chứng được điều đó, thì chính là sự giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng chân thật nhất, bạn cần buông bỏ tất cả những thứ giả tướng đó, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. Chúng ta tận hình thọ chờ đợi, bất kể thời gian, không gian nào, chúng ta cũng liền đồng ý đi theo đức Phật A di đà và hai vị Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Đại Thế Chí, cùng thánh chúng ở thế giới Tây phương cực lạc, đến thế giới Ta Bà tiếp dẫn chúng ta, có bồ đề tâm bền vững, đủ điều kiện được vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc. Chúng ta chưa hết thời gian thọ mạng trả nghiệp đời trước, thì chúng ta quyết giữ gìn bồ đề tâm bền vững. Bạn phải thực sự chân thật làm được việc quán tưởng luyện tâm, trải sự luyện tâm, thì nói mới thực tin, mới đúng sự thật. Bạn phải tự độ, độ tha mới đạt đến viên mãn viên thành Phật đạo. Tức là chúng ta chuyển nghiệp thành nguyện của chư Phật Như Lai.
5. Thần Thông Hoa Bồ tát, là việc chúng ta sống trong một môi trường hoàn cảnh vật chất và tinh thần bị ô nhiễm, luôn thay đổi, chuyển động không ngừng, tác động chi phối, cám dỗ mê hoặc chúng ta, bởi tất cả những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, tâm phân biệt, vọng tưởng, chấp trước, tâm tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri tà kiến, tự tư tự lợi, ích kỷ keo kiệt, ghen ghét đố kỵ, tự cao tự đại. Tức là nói trong vũ trụ nhân sinh này mọi thứ luôn thay đổi không ngừng, thì chúng ta cần nắm vững được nguyên tắc, đạo lý, phương pháp bất biến, gìn giữ cho tâm của chúng ta luôn thanh tịnh đến tịch diệt, tâm bồ đề bền vững, Bồ tát Thần Thông Hoa chính là dậy bảo chúng ta sinh tâm giúp đỡ mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, nhưng tâm phải vô trụ, vô trụ thì phải sinh tâm thương sót, giúp đỡ cho mọi người, nhưng không làm ảnh hưởng đến sự vô trụ, tâm thanh tịnh đến tịch diệt của chúng ta.
Hai vị Bồ tát Quán Vô Trụ và Thần Thông Hoa hợp lại, là mắt, pháp luân. Thần thông hoa luôn chuyển động, thay đổi, biến hoá, giống như cảnh giới môi trường, hoàn cảnh bên ngoài, luôn thay đổi, chuyển động, biến hoá không ngừng. Quán vô trụ là trung tâm của vòng tròn, thì không động, đứng yên, như như bất động, trong vòng tròn thực sự có vòng tròn tâm, nhưng chúng ta không thể nhìn thấy, nhưng quả thật là nó có, vô hữu bất nhị, vĩnh viễn bất động, còn vòng tròn ngoài thì luôn chuyển động, thay đổi, biết hoá không ngừng. Chúng ta làm thế nào khi mà thân, khẩu, ý nghiệp giúp ích cho mọi người, bình đẳng được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, phát được bồ đề tâm bền vững, được minh tâm kiến tính thành Phật. Nhưng tâm của chúng ta thì như như bất động, tức là trong cái luôn động, cảnh giới môi trường hoàn cảnh bên ngoài luôn biến đổi, chuyển động, biến hoá không ngừng, thì chúng ta phải nắm chắc nguyên tắc, đạo lý, phương pháp bất biến, “cảnh tuỳ tâm chuyển”. Chúng ta không để cảnh giới môi trường hoàn cảnh bên ngoài, chi phối, sắp đặt, thay đổi, tâm thanh tịnh của chúng ta, mà chúng ta bằng định tâm thanh tịnh bắt nó thay đổi theo ý muốn chính thiện Phật pháp của chúng ta. Như vậy thì đây thuộc về công phu thiền định, cảnh giới thiền định rất sâu, sự lý nhất tâm bất loạn, minh tâm kiến tính thành Phật. 
Bốn nhân thế không, là không ngã tướng, không nhân tướng, không chúng sinh tướng, không thọ giả tướng. Tức là không dính tướng chúng ta vào tướng người, không dính vào tất cả các tướng của sự vật, sự việc, hiện tượng mà mình đã làm, đang làm và sẽ làm, chúng ta không làm ít, không làm nhiều, mà hằng ngày vẫn tiếp tục làm, mà vẫn không dính vào tất cả các tướng, kẻ cả ngã tướng của chính chúng ta, thì đó gọi là Bồ tát Thần Thông Hoa. Thần thông là sự thông đạt, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, thần là tỷ dụ năng lực của bạn hơn người, thông là chỉ sự thông đạt, hiểu thấu Phật pháp của bạn, mà người khác thì không thông đạt, hiểu biết trí tuệ cao đẳng bằng bạn. Hoa là tỷ dụ tu nhân, thực vật nở hoa trước, sau kết quả, hoa tỷ dụ cho các vị Bồ tát tu Lục độ, vạn hạnh, không phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, bình đẳng giúp đỡ tất cả chúng sinh. Bồ tát cần hoá độ thân gì để độ được mọi người thì thể hiện thân đó, không có thân nhất định và không có pháp nhất định, tất cả đều là tự tại tuỳ duyên nhập thế. Nhưng mục tiêu tổng phương hướng chỉ có một, bất biến, là để thương sót, giúp đỡ bình đẳng cho mọi người được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, phát được bồ đề tâm bền vững, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Chúng ta phải biết cách làm thế nào, để khế nhập, thâm nhập chính chúng ta vào Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật, hợp lại thành một khối thống nhất, kiên cố, bền vững, đồng thể, không thể tách rời. Chúng ta chân thật làm được điều đó, thì đời sống hằng ngày của chúng ta chính là đời sống của chư Phật Như Lai, trong Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật. Từng câu, chữ, đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới trong Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật, mà thân, khẩu, ý nghiệp của chúng ta, đều làm được tất cả đạt đến sự hoà hợp thống nhất, đồng thể, thì chúng ta đương nhiên thành chư Phật Như Lai. Như vậy, chúng ta được hoà mình vào biển nguyện A di đà nguyện hải, được chư Phật Như Lai thọ ký bất thoái trong một đời tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, được vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc, tu hành viên mãn thành chư Phật Như Lai. Chúng ta biết không có pháp cố định, thân cố định, để phổ độ mọi người, mọi chúng sinh, mà tuỳ ý niệm của chúng ta, mà các vị Bồ tát ứng hoá giúp đỡ bình đẳng phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, được giải thoát sinh tử luân hồi. Như vậy, chúng ta dù có ở hoàn cảnh nào đi nữa, xuất gia hay tại gia, vào trong rừng sâu, núi thẳm hay ở giữa hồng trần uế độ nhiễm ô này, nhưng hoàn cảnh môi trường bên ngoài ở bất kỳ điều kiện hoàn cảnh môi trường thuận nghịch nào, cho dù có khắc nghiệt, ô nhiễm, biến hoá đến đâu, thì tâm chúng ta vẫn giữ được bồ đề tâm bền vững, được minh tâm kiến tính thành Phật.
6. Quang Anh Bồ tát, chỉ sự quang minh ánh phát, toả sáng hào quang. Biểu hiện bằng sự tinh tấn, rốt ráo, học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, tu hành các công đức, phát được bồ đề tâm bền vững, làm ra được tấm gương tư tưởng đạo đức phong cách hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chí thiện, chí công vô tư tốt nhất cho đại chúng học tập làm theo. Chúng ta biểu diễn pháp phương tiện thiện xảo, sao cho không để lại một chút dấu vết, không một chút tạo tác, y như đồng đức tính, đồng hạnh nguyện với đức Phật A di đà, cũng như mười phương ba đời chư Phật Như Lai. 
Bổn sư Thích Ca Mô Ni Phật, tán thán A di đà Phật, là “quang trung cực tôn, Phật trung chi vương”, tức là có được “thể dụng”, vạn đức, vạn năng, trí tuệ, công đức, phước báu, ánh sáng quang minh, tất cả mọi thứ đều là vô lượng vô biên, vượt hơn tất cả mười phương ba đời chư Phật Như Lai. Chúng ta tự giác học Phật tu pháp, có được thành quả, thì nên biểu hiện bằng việc học Phật có được lợi ích, công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, tốt đẹp như thế nào, phải thể hiện được sự chân thật lợi ích, công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng đó. Toàn thân chúng ta toả sáng hào quang, sức khoẻ tốt, tinh thần sung mãn, mặt cười đón người, tươi sáng, bồ đề tâm bền vững, biểu hiện ra thân tướng chính thiện oai nghi. Khiến cho đại chúng nhìn vào thấy rõ được việc tự giác học Phật tu pháp tốt thật sự, chân thật bất hư, mà từ đó họ sinh tâm ngưỡng mộ, tín nhiệm, yêu thích, tin ưa tự giác học Phật tu pháp, tìm hiểu lý giải hành chứng được Phật pháp, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát bồ đề tâm bền vững, đạt đến viên mãn viên thành Phật đạo. Chúng ta sống khiêm tốn, giản dị, tiết tiệm, nhưng khi tiếp xúc với đại chúng rộng lớn, thì hình thức, biển hiệu, lễ tiết, lễ kính là điều rất quan trọng, vì đây là hình ảnh chuẩn mực, đúng chính pháp trong Phật pháp của chúng ta. 
7. Bảo Tràng Bồ tát là Tăng đoàn, chúng ta và nhân loại trên toàn thế giới, cũng như tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, trong quá khứ, hiện tại và tương lai, đều là một Tăng đoàn, tập trung dân chủ, đoàn kết thống nhất tuân theo Lục hoà kính, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, quốc gia dân tộc, tất cả đều được bình đẳng học Phật tu pháp, đều có Phật tính và đều được thành Phật trong tương lai, và hiện tại đang làm chúng sinh, đều được quan tâm, thương sót, giúp đỡ bình đẳng được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, phát được bồ đề tâm bền vững, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Tăng đoàn, là sự tập trung dân chủ, đoàn kết thống nhất, hoà hợp của chúng ta, nhân loại trên toàn thế giới, chúng sinh tận hư không khắp các pháp. Tức là tất cả các hội quần chúng, tuân thủ lời giáo huấn của chư Phật Như Lai, tu theo Lục hoà kính, thì hội quần chúng này, thì gọi là Tăng đoàn. Gia đình bạn có bốn người, tu sáu phép hoà kính, thì chính là một Tăng đoàn, hoặc là cửa hàng của bạn, công ty của bạn, mọi người cùng tự giác học Phật tu pháp, tu sáu phép hoà kính, thì cũng là Tăng đoàn. Bạn phải làm tấm gương tốt nhất cho hội quần chúng học tập làm theo. 
Ngày nay trong xã hội nẩy sinh rất nhiều những quan niệm hiểu lầm Phật giáo và tai hại khi họ xem Phật giáo là tôn giáo, mà là tôn giáo cấp thấp, đa thần giáo. Phật giáo không phải là tôn giáo, cũng không phải triết học, Phật giáo là nền văn hoá giáo dục trí tuệ, chí thiện, chí công vô tư, giúp đỡ bình đẳng cho chúng ta, nhân loại trên toàn thế giới, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, có được chân thật những lợi ích phước báu, công đức, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, hiểu thấu được mọi sự vật, sự việc, hiện tượng của vũ trụ nhân sinh này, tất cả đều là những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, do tâm tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri tà kiến, tự tư tự lợi, ích kỷ keo kiệt, ghen ghét đố kỵ, tự cao tự đại, tâm phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, mà biến hiện ra sáu cõi, ba đường ác luân hồi và mười pháp giới. 
Đức Phật nói, thời kỳ mạt pháp “tà sư nói pháp, nhiều như cát sông hằng”. Tà sư là chỉ chúng ta tu học Phật pháp, không đúng như chính pháp, đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới trong Phật pháp. Chúng ta giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, chỉ nói ở cửa miệng, mà trong tâm chúng ta thì không thực chứng được những “giáo lý hành quả” trong Phật pháp. Tức là thân, khẩu, ý nghiệp của chúng ta chưa làm được đồng nhất, không thống nhất hợp lại thành một, chưa hiểu thấu Phật pháp, chưa y giáo phụng hành, khiến cho đại chúng xem thấy, nghe thấy hiểu lầm chúng ta, hiểu lầm Phật pháp, không tin ưa Phật pháp, không biết được chính pháp, không biết được những tinh hoa của nhà Phật. Phật pháp chân thật mang lại những lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, thiết thực ngay trong cuộc sống hằng ngày của chính chúng ta, đó là cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững, đời sống trí tuệ cao đẳng, không gì sánh bằng, đời sống của chư Bồ tát, chư Phật Như Lai. 
Đại chúng ngày nay do nhân duyên, thiện căn, phước báu, công đức mỏng, nghiệp dày, cho nên chưa biết được những lợi ích giá trị tinh hoa của Phật pháp, mà còn hiểu lầm, hiểu sai Phật pháp, dẫn đến sự xem thường Phật pháp, xem nhẹ những lời giáo huấn dạy bảo của chư Phật Như Lai, không biết sợ quy luật nhân quả, dẫn đến làm ra các việc hồ đồ, tạo ác nghiệp nghiêm trọng, gây ra các tệ nạn xã hội cực trọng, ngày một gia tăng, họ chỉ thấy cái lợi trước mắt, mà quên đạo nghĩa, làm các việc hại người hại mình, chứ không phải là hại người lợi mình, cái lợi mà họ thấy là trước mắt cũng là cái giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, nhưng quả báo xấu tà ác thì vô cùng ác liệt, khổ đau đến tột cùng, khi hết thời gian thọ mạng bị đọa lạc vào ba đường ác, thật đáng thương xót vô cùng. 
Ngày nay đại chúng rất ít được tiếp xúc với chính pháp trong Phật pháp, lý giải hành chứng với những đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới, chính pháp trong ba đại tạng kinh và mười hai giáo. Phật giáo có những pháp phương tiện thiện xảo, giúp đỡ bình đẳng cho chúng ta được tinh tấn, rốt ráo học Phật tu pháp, “Tín Giải Hành Chứng”, “Giáo Lý Hành Quả”, “Tín Nguyện Hạnh”, “Giới Định Huệ”, “tín thâm, nguyện thiết, hành chuyên” được Phật pháp. Đây là đạo lý cơ bản và cũng là giá trị tinh hoa chính pháp trong Phật pháp. Đại đa số chúng ta chưa được tiếp xúc, lĩnh hội những tinh hoa của Phật pháp, chưa hiểu thấu được Phật pháp, mà xã hội đại chúng ngày nay, bị tiếp xúc với rất nhiều quan điểm, tư tưởng, kiến giải sai lệch, xem xét học tập rất nhiều những quan điểm sai biệt, như sắc tình, bạo lực, ấn phẩm độc hại. Cho nên tâm tư tình cảm, ý nghĩ, việc làm, lời nói của đại chúng cũng bị ô nhiễm, tiêm nhiễm những thứ độc hại này, làm cho đại chúng có rất nhiều đau khổ, phiền não, vướng mắc vào những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, mà không có cách nào giải quyết được. 
Chúng ta phát được tâm bồ đề bền vững, giống như bông hoa sen, thì chúng ta ở đâu dù cho hoàn cảnh bên ngoài có nhiễm ô, khắc nghiệt đến mức độ nào đi nữa, như trong cõi uế độ Ta bà này, sáu cõi ba đường ác luân hồi, thì tâm chúng ta vẫn được thanh tịnh, vô nhiễm bụi trần, có được đời sống hiểu biết trí tuệ cao đẳng, tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. Nó cũng nói nên cảnh vật bên ngoài đều là hư ảo, không phải thật, cảnh vật có bị ô nhiễm hay không bị ô nhiễm, thì cũng không sao, vì nó đều là giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, không phải thật. Tất cả sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, đều là những giả tướng, do tâm phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, biến hiện ra, khi chúng ta tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ được những giả tướng, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm bền vững, được minh tâm kiến tính thành Phật, chứng thực được sự lý “vô ngã”, “vạn pháp đều không”. Ngược lại tâm chúng ta bị nhiễm ô, tạp tâm, loạn tâm, đa tâm, tâm xấu tà ác, vọng tâm, thì cảnh vật bên ngoài có trong sạch, thanh khiết, thanh tịnh đến tịch diệt đi nữa, thì cũng biến thành ô nhiễm, bất tịnh, bất thiện. Do tất cả những sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, đều là do tâm tưởng sinh, tức là chân tâm thì chỉ có một tướng an vui, tự tại, tuỳ duyên, “tâm tịnh thời cõi nước tịnh”. 
Tăng đoàn là nói chúng ta phải xây dựng, thành lập, phát triển tăng đoàn một cách tốt nhất, hiệu quả nhất, có lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, để làm tấm gương tốt, tăng đoàn mô phạm, chuẩn mực về mọi mặt tu hành sáu phép hoà kính, cho các hội quần chúng trong đại chúng học tập làm theo. Chúng ta và nhân loại trên toàn thế giới, cũng như chúng sinh tận hư không khắc các pháp giới, đều là một Tăng đoàn. Trong đó có bốn chúng đệ tử Phật chúng ta và các hội quần chúng, bốn người trở lên cùng tu Lục hoà kính, thì được gọi là Tăng đoàn. Chúng ta biết câu danh ngon “chỉ sợ không có đạo, không sợ không có chùa”, “buông đồ đao, lập địa thành Phật”, chúng ta cần phải cố gắng, chăm chỉ làm việc, tích luỹ tiền của, công sức, để xây dựng chùa, đạo tràng, hoằng pháp lợi sinh. Chúng ta tự giác học Phật tu pháp, chưa tu được nhiều công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ, nhưng đức Phật A di đà, thì có đại phước báu, công đức, trí tuệ vô lượng vô biên, vạn đức, vạn năng, chúng ta y giáo phụng hành, lấy đức Phật A di đà làm núi dựa quy về, thì còn gì phải lo lắng đến việc không có vật chất và tinh thần, công sức, để xây dựng chùa, đạo tràng, để hoằng pháp lợi sinh, kế thừa tiếp nối huệ mạng của chư Phật Như Lai. 
Chúng ta nên xây dựng chùa, đạo tràng, để hoằng pháp lợi sinh, chỉ nhận sự cúng dường tuỳ tâm, tuy hoàn cảnh điều kiện của thành viên hội, chứ không quy định mỗi người phải đóng góp bao nhiêu tiền, thế nào cũng được. Không nên tạo áp lực lên hội viên, đến đạo trạng là để nghe giảng kinh thuyết pháp, học Phật tu pháp, nếu phải lo lắng, hoạch định kế hoạch, quản lý đến tiền, thì gây ra phiền não, chướng ngại không tốt cho hội viên. Tiền mà chúng ta cần để hoằng pháp lợi sinh, thì đức Phật A di đà sẽ cử người có nhân duyên với Phật pháp mang đến cho chúng ta, không cần chúng ta phải lo lắng, phiền não. “Phật thỉ môn trung, hảo cầu tất ứng”, chúng ta thường giữ tâm biết ơn báo ơn, để hoằng pháp lợi sinh, y giáo phụng hành. Thế gian cái gì cũng có thể đùa dỡn, nhưng không thể đùa dỡn với Phật pháp, nhất định bị đoạ a tỳ, địa ngục. Chúng ta chân thật học Phật tu pháp, y giáo phụng hành, y thuyết tu hành, thì cả đời của bạn, là được chư Phật Như Lai an bài, thương sót, giúp đỡ cho bạn, bạn không cần phải lo lắng gì. Bạn cầu tất cả mọi thứ mà chưa được, thì bạn cần xem có những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác cần phải sám hối tiêu trừ, hoặc tất cả những cái bạn cầu, không đúng đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới chính pháp trong Phật pháp, do đó bạn nên sửa chữa, thay đổi, tự làm mới mình, sao cho đúng với chính pháp trong Phật pháp, thì sẽ đương nhiên bạn cầu được ước thấy. 
Thời đại ngay nay chúng ta nhờ sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật hiện đại và vô tuyến truyền hình vệ tinh, hệ thống mạng internet, để lưu thông Phật pháp đến mười phương thế giới, in ấn sách báo, làm thành đĩa cd, vcd, dvd có thể bảo tồn hai trăm năm, lưu thông lâu dài, cũng như lấy bất kỳ thông tin nào cần thiết cho việc tự giác học Phật tu pháp đều có thể có ở  trên hệ thống mạng internet. Như vậy, chúng ta chính là Bồ tát Bảo Tràng, hệ thống mạng internet chính là một đạo tràng lớn, giúp đỡ cho chúng ta tự giác học Phật tu pháp, hoằng pháp lợi sinh. Thời đại ngày nay người bận rộn rất nhiều, hiếm được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ ít, do vậy chúng ta cần giảng kinh thuyết pháp ngắn gọn, lời nói chân thành, thật thà, khiêm tốn, giản dị, thông dụng, nhưng ý sâu lời cạn, giúp người nghe hiểu thấu Phật pháp, mỗi lần giảng kinh thuyết pháp khoảng hai giờ. Nhưng chúng ta phải diễn giải được hết đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới trong kinh giáo, để mọi người chân thật có được lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật.
8. Trí Thượng Bồ tát, là hiểu biết trí tuệ cao đẳng, trí tuệ viên mãn, diệt trí vô thường, hiểu thấu Phật pháp. Tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới đều có phiền não, đau khổ, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, việc này không chỉ ở đời này tạo ra, mà còn do nhiều đời, nhiều kiếp trước đã tạo ra. Vậy tự hỏi khi nào thì chúng ta hết đau khổ, phiền não, buông bỏ được những giả tướng, những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, đến khi chúng ta gặp được chính pháp trong Phật pháp. Tức là chúng ta có được thiện căn, phước đức, công đức đầy đủ, nhân duyên tốt lành, may mắn gặp được các bậc thiện tri thức, minh sư, khuyên bảo chúng ta tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Thiện căn, là bạn tin Phật, có tín tâm đối với Phật pháp, là người chân thành, thật thà, tín giải hành chứng, hiểu thấu thông đạt Phật pháp. Phước báu, công đức, hiểu biết trí tuệ là nguyện hạnh của chúng ta, tức là bạn đã tin Phật, thì bạn có chịu làm theo hay không, nếu bạn chịu làm theo, thì chuyển được tâm phiền não, thành tâm bồ đề, bạn có được lợi ích công đức, phước báu, đạo đức, đời sống trí tuệ cao đẳng. Đời sống của bạn tương ứng với đời sống của chư Phật Như Lai.
Như vậy, bạn hỏi chư Phật Như Lai có thể biến cuộc sống nghèo đói, bần cùng của bạn, thành cuộc sống giàu sang được không? Xin thưa với bạn không làm thế được, vì đây là quy luật nhân quả, không ai có thể làm được việc đó, chư Phật Như Lai cũng không làm được. Nhưng có thể giúp bạn, bằng cách hướng dẫn, truyền đạo, giới thiệu Phật pháp cho bạn biết cách tự giác học Phật tu pháp, “lý giải hành chứng” được những giáo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới trong Phật pháp. Để bạn có được cuộc sống giàu sang, tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. Tức là chư Phật Như Lai, giúp đỡ bình đẳng chúng ta tinh tấn tự giác học Phật tu pháp, để hiểu thấu Phật pháp, tự tu hành tự chứng được những “giáo lý hành quả” trong Phật pháp. Chư Phật Như Lai giúp đỡ chúng ta bằng cách giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, còn việc tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, thì chúng ta cần phải tự giác học Phật tu pháp, thì mới có được thành tựu chứng đắc quả vị chư Phật Như Lai. Tức là việc đó bạn phải tự làm không ai làm thay bạn được, nếu bạn tự giác học Phật tu pháp với quyết tâm tinh tấn, rốt ráo nhất, thì không cần đợi đến đời sau, mà ngay trong đời này, bạn được hưởng chân thật những lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng. Bạn có được đời sống tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững, phát được bồ đề tâm, đến khi hết thời gian thọ mạng được vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc, tu hành viên mãn thành Phật Như Lai. 
Chư Phật Như Lai hướng dẫn, truyền đạo, giới thiệu Phật pháp, bình đẳng cho chúng ta biết được đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới trong Phật pháp. Việc làm thực hành, tu “Giới Định Huệ”, “Tín Nguyện Hạnh” theo các pháp môn, thì nhất định chúng ta phải tự đi làm, để trải sự luyện tâm, y giáo phụng hành, tín giải hành chứng, tự mình trải nghiệm, để sửa chữa, thay đổi, tự làm mới những tư tưởng, đạo đức, phong cách, hiểu biết trí tuệ, sao cho tương ứng, phù hợp với những đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới chính pháp trong Phật pháp. Nếu sau khi bạn nghe chỉ dạy rồi, mà không làm theo, không y giáo phụng hành, thì không còn cách nào khác để cứu giúp bạn, như thế là bạn đã bằng lòng, cam tâm tình nguyện làm người thông thường, phàm phu, phải chịu những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, đau khổ, phiền não, cho đến khi hết thời gian thọ mạng, thì liền bị sinh tử luân hồi trong sáu cõi ba đường ác, phải chịu nhiều đau khổ đến tột cùng, như lửa lớn đốt cháy thân người, thật đáng thương xót vô cùng. 
Chúng ta muốn chuyển nghiệp thành nguyện, tức là chuyển nghiệp báo sinh tử luân hồi trong sáu cõi ba đường ác, thành quả báo giải thoái sinh tử luân hồi, chuyển phàm thành thánh, chuyển tâm phiền não, thành tâm bồ đề bền vững. Chuyển đời sống người thông thường nhiều khổ đau, phiền não, phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, thành đời sống hiểu biết trí tuệ cao đẳng, được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững, thanh tịnh tịch diệt của chư Phật Như Lai. 
Trong xã hội ngày nay, chúng ta thường nhìn thấy lợi thì quên nghĩa, xã hội ngày trước nói đạo nghĩa, còn ngày nay đại đa số thấy lợi quên nghĩa, như vậy thì thử hỏi làm sao mà không điên đảo, mê si, mờ mịt, không thể lường trước được. Nếu bạn sống trong thế giới này, sáu căn tiếp xúc với cảnh vật sáu trần sinh ra sáu thức, mà bạn không bi nó chi phối, bạn không bị động tâm, thì bạn không phải là phàm phu, người thông thường, bạn phải có hiểu biết trí tuệ cao đẳng, bạn phải là chư Phật Như Lai, chư Bồ tát tái sinh. Bạn phải học Bồ tát Hiền Hộ không thể dùng tình cảm mà hành động, làm việc, mà phải dùng lý trí, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, đúng đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới chính pháp trong Phật pháp. Để sử lý giải quyết và ứng phó với các vấn đề nẩy sinh trong đời sống của chúng ta, làm thế nào để trong một đời này, tu hành các công đức đạt đến viên mãn viên thành Phật đạo.
9. Tịch Căn Bồ tát, là nói cảnh giới của chúng ta, cũng như tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, do tự giác học Phật tu pháp, mà có được hiểu biết trí tuệ cao đẳng, mới vào được thiền định sâu, thanh tịnh tịch diệt cảnh trí, là đại định. Căn là cảnh giới sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, tạo ra sáu thức. Tịch là tâm thanh tịnh đến tịch diệt, định tịch diệt, “Giới Định Huệ”, tam học hỗ trợ lẫn nhau, tuy ba mà là một thể thống nhất. Định là hiểu thấu chân tướng của tất cả các sự vật sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, đều là những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng. Huệ là buông bỏ những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng đó, như tâm tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri tà kiến, tự tư tự lợi, ích kỷ keo kiệt, ghen ghét đố kỵ, tự cao tự đại, tâm phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, “phàm những gì có tướng, đều là hư vọng”. Tức là bạn sống trong cảnh giới thực tế, môi trường hoàn cảnh thuận nghịch bên ngoài luôn luôn thay đổi, thì chúng ta cần phải nắm chắc hiểu thấu nguyên tắc, đạo lý bất biến, giữ gìn được tâm thanh tịnh đến tịch diệt, như như bất động, bồ đề tâm bền vững, “ngoài không động tâm, trong không chấp tướng”, như vậy là bạn đã có công phu thiền định rất sâu, “hiểu thấu buông bỏ”. Như vậy, tâm của bạn có Định Huệ, Định cùng Huệ là một, không hai. Định cùng Huệ, chính là việc “hiểu thấu buông bỏ”. 
Chúng ta tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, thì dù có bị người khác chủi mắng, làm nhục, hãm hại bạn đến nhà tan người chết, hại bạn đến nỗi bị tù trung thân hay tử hình, thì chúng ta cũng nhất quyết không có tâm oán người trách trời, không có cái tâm báo thù họ. Đức Phật dạy, oán thù nên giải không nên kết, vì “oán thù càng kết, thì càng sâu”, báo tới báo lui không biết đến khi nào ngừng rứt, đời này bạn báo thù họ, đến đời sau họ lại báo thù bạn. Bạn bị hám hại mà chết, mà bạn không có tâm oán trách, báo thù họ, thì cái kết oán thù đến đây là hết, thì bạn vẫn được vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc, vì chư Phật Như Lai, cũng như mười phương ba đời chư Phật Như Lai tôn kính bạn, chư Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn, Thiên địa quỷ thần tôn kính bạn, tất cả những bậc thiện tri thức, nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới, cũng như chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới tôn kính bạn, thương sót, giúp đỡ bạn. Như vậy thì việc bạn được giải thoát khỏi sinh tử luân hồi là đương nhiên, do bạn đã hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ được những giả tướng và làm đúng theo những giáo lý, đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới chính pháp trong Phật pháp, mà chư Phật Như Lai đã dạy bảo, truyền đạo, giới thiệu Phật pháp giúp đỡ bạn, bạn đã làm được y giáo phụng hành, phát được bồ đề tâm bền vững.
Trí Thượng Bồ tát, thể hiện là hiểu biết trí tuệ cao đẳng, còn Tịch Căn Bồ tát, thể hiện được phước báu, công đức vô lượng vô biên. Như vậy, chúng ta có tâm bồ đề bền vững là có đại trí tuệ, công đức, phước báu vô lượng vô biên. Đến đây hai vị Trí Thượng và Tịch Căn Bồ tát, đã giúp đỡ chúng ta tu hành các công đức viên mãn thành Phật Như Lai, nhưng viên mãn mà chưa cứu cánh viên mãn. Chúng ta muốn đạt được viên mãn cứu cánh, theo việc tự giác học Phật tu pháp mà không chỉ dựa vào tự lực, mà không có tha lực của chư Phật Như Lai, thì phải mất ba a tăng kỳ kiếp nữa, mới được quả Phật viên mãn cứu cánh, thời gian rất dài vô lượng vô biên. Cho nên cần phải có ba vị Bồ tát phía sau, là Bồ tát Tín Huệ, Nguyện Huệ, Hương Tượng. Bồ tát Phổ Hiền với mười đại nguyện vương, quy về cầu nguyện được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, mới đạt đến quả Phật cứu cánh viên mãn. Pháp thân đại sĩ, A la hán và các vị Bồ tát cầu nguyện được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, là được vãng sinh thượng thượng phẩm cõi thực báo trang nghiêm. Tức là đã đem thời gian ba a tăng kỳ kiếp rút ngắn còn một niệm, một đời, một kiếp, đây là con đường thẳng tắt cứu cánh viên mãn nhất cho chúng ta, cũng như cho tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, thành đạt viên mãn không thể nghĩ bàn. 
10. Tín Huệ Bồ tát, thể hiện sự tin tưởng có sự suy xét bằng lý trí, có hiểu biết trí tuệ cao đẳng, đúng với chính pháp trong Phật pháp. “Tín Nguyện Hạnh”, là phương pháp tự giác học Phật tu pháp theo pháp môn Tịnh Độ tông, biểu hiện bạn nên thật sự tin tưởng, thề nguyện và thực hành theo những điều mà đức Bổn Sư Thích Ca Mô Ni Phật, đã truyền đạo, giới thiệu Phật pháp, hoằng pháp lợi sinh, giúp đỡ cho chúng ta, cũng như chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, được chân thật lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng. Tin tưởng là chúng ta phải chân thật tin tưởng vào đức Phật A Di Đà, Bổn Sư Thích Ca Mô Ni Phật giới thiệu cho chúng ta biết được thế giới Tây phương cực lạc, tin tưởng A di đà Phật nói qua y báo, chính báo trang nghiêm của thế giới Tây phương cực lạc, qua Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật, ngay trong đó có đức tính, lý, sự, nhân, quả, chân thật bất hư. Mỗi câu, mỗi chữ, đạo lý nhân quả, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới trong Phật pháp, chúng ta đều tin sâu không nghi, nếu không phải tin được như vậy, thì người niệm Phật theo pháp môn Tịnh Độ tông tuy nhiều, nhưng người được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc thì không nhiều. Vì cái tin đó không phải thật tin, cái đó gọi là mê tín, mê tín cũng có thể vãng sinh nhưng phải thật “mê tín” 100%, vì từ sáng đến tối họ chỉ có niệm đức hiệu, sáu chữ hồng danh “Nam mô A di đà Phật”, còn giả mê thì không thể vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, tức là miệng chúng ta niệm danh hiệu “Nam mô A di đà Phật”, nhưng trong tâm dối bời, nhân ngã thị phi đầy đủ, phải trái, đúng sai, thật giả, thiện ác lẫn lội, nghĩ ngợi lung tung, thì khó có thể được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc. 
11. Nguyện Huệ Bồ tát, thể hiện sự thề nguyện có sự hiểu biết trí tuệ cao đẳng và cần có sự tin tưởng vững chắc vào Phật pháp. Chúng ta tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, để đạt được tỷ lệ cao nhất 100% người tự giác học Phật tu pháp đều được vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc. Chúng ta cần phải chân thật “Tín Nguyện Hạnh”, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, phát được bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A di đà Phật được công phu niệm Phật thành khối, lý nhất tâm bất loạn, được minh tâm kiến tính, khôi phục được chân như bổn tính, cầu nguyện được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, tu hành viên mãn thành Phật Như Lai. 
12. Hương Tượng Bồ tát, thể hiện sự hành trì pháp môn cần phải có sức mạnh, tinh tấn, rốt ráo, nhưng cũng cần phải có sự tin tưởng, thề nguyện “tự giác, giác tha, hành giác”. Chúng ta phải tin tưởng 100% vào từng câu, chữ, đạo lý nhân quả, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới chính pháp trong Phật pháp, chúng ta phải thật làm được đến 100% tất cả những điều đó. Tức là nhân duyên, thiện căn, công đức, phước đức của chúng ta chín muồi, chúng ta thật tín, thật nguyện, thật hạnh, để được đức Phật A di đà, cũng như mười phương ba đời chư Phật Như Lai, gia trì, trợ niệm bình đẳng cho chúng ta. Như vậy thì việc tự giác học Phật tu pháp của chúng ta, đạt đến được một người, vạn người, toàn thể nhân loại trên thế giới, cũng như tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, tự giác học Phật tu pháp, phát được bồ đề tâm bền vững, thì cũng đều được vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc bất thoái thành Phật Như Lai. “Tín Nguyện Hạnh”, tuy ba mà là một thể thống nhất, không thể tách rời, trong đó chân tín, tin tưởng Phật pháp, là điều kiện đầu tiên quyết định đến việc tu hành nghiệp đạo viên thành Phật đạo của chúng ta. Nếu bạn có tín, mà không có nguyện, hạnh, thì cái tín đó cũng là giả.
13. Bảo Anh Bồ tát, đây là A di đà nguyện hải, tức là chúng ta đã phát được bồ đề tâm bền vững, được tâm vô trụ Niết bàn, niệm Phật được công phu lý nhất tâm bất loạn, thiền định được minh tâm kiến tính thành Phật, vào được biển nguyện A di đà Phật. Anh là tất cả tinh hoa, quý giá, thiêng liêng, cao đẳng. Bảo là chân bảo, của báu, cao quý. Bảo anh là bảo truyền những tinh hoa, công phu, tinh tuý, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, là tinh hoa trong Phật pháp. Ngày nay bảo anh là nhờ vào sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đại, vô tuyến truyền hình vệ tinh, hệ thống mạng internet, sách báo, băng đĩa cd, vcd, dvd và truyền thông đa phương tiện, để lưu truyền Phật pháp, hoằng pháp lợi sinh đến tất cả nhân loại trên toàn thế giới. Chúng ta đem tất cả những tinh hoa lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, trong từng câu, chữ, đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới chính pháp trong Phật pháp, vì mọi người, chúng sinh, bình đẳng được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật Như Lai. 
Chúng ta được vãng sinh giống như việc di dân từ thế giới Ta bà uế độ, nhiều ô nhiễm, ngũ trược ác thế, đến thế giới Tây phương cực lạc thanh tịnh tịch diệt cảnh trí, được hưởng tất cả những điều tốt đẹp viên mãn. Chúng ta tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm bền vững, đủ điều kiện được đi sang thế giời Tây phương cực lạc, mà còn mời thêm được nhiều người đi cùng chúng ta, thì thật là vui sướng thù thắng, lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng đến tột cùng. Chúng ta cần quyết tâm tinh tấn, rốt ráo học Phật tu pháp, tức là “Tín Nguyện Hạnh” phải có đại lực, khi bạn đầy đủ ba yếu tố “Tín Nguyện Hạnh”, “tin sâu không nghi”, “tín thâm, nguyện thiết, hành chuyên”, y giáo phụng hành, theo phương pháp học căn bản tu “Giới Định Huệ” hay “Giác Chính Tịnh”, đạt đến viên mãn, thì được vào đạo tràng A di đà Nguyện hải. Tức là vào được biển nguyện A di đà Phật, bạn vào được pháp giới nhất chân, bạn biết được tất cả các pháp thế gian, pháp xuất thế gian đều là pháp vô hữu bất nhị, chỉ một pháp, không hai, không ba. Tức là vạn pháp quy về một tâm, vạn pháp nhất như. Pháp môn Tịnh Độ tông là kinh tạng, bồ tát tạng, thời phương đẳng, đốn giáo, viên giáo, là pháp môn niệm Phật, biến hữu niệm nhập vô niệm, “tín nguyện trì danh”, “niệm mà không niệm, không niệm mà niệm, niệm cùng không niệm là một, không hai”. 
Bồ tát Bảo Anh ở đây thọ ký cho bạn vào được biển nguyện A di đà Phật, chúng ta phải thành thật niệm Phật, “niệm Phật tương tục, nhiếp hết sáu căn”, cần đạt được công phu niệm Phật thành khối, thì được đới nghiệp vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, hay niệm Phật đến công phu lý nhất tâm bất loạn, một niệm không sinh, tâm như như bất động, trước mọi hoàn cảnh, môi trường thuận nghịch bên ngoài. Tức là chúng ta được đới nghiệp vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, chỉ được mang theo nghiệp cũ đã tạo trong quá khứ, không được mang theo nghiệp mới tạo trong đời này, khi chúng ta được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, nhờ sự gia trì, với bốn tám đại nguyện của đức Phật A di đà, giúp đỡ bình đẳng cho chúng ta, cũng như tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, tu hành đạt đến viên mãn thành Phật Như Lai. 
14. Trung Trụ Bồ tát, biểu thị học vấn, hiểu biết trí tuệ cao đẳng. Chúng ta may mắn có được nhân duyên, thiện căn, công đức, phước báu, được tinh tấn, rốt ráo, tự giác học Phật tu pháp, được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. Nhưng người thì vẫn chưa đi, mà vẫn còn ở lại trên đời này, thì phải làm thế nào, để trong quan hệ xã hội, đối nhân sử thế, tiếp sự vật, sự việc, hiện tượng, sao cho đúng đạo lý, đúng phương pháp chính pháp trong Phật pháp. Chúng ta cần phải làm đến vừa vặn, thích hợp, đúng chuẩn mực lễ tiết. Tức là chúng ta cần phải luôn giữ gìn tâm bồ đề bền vững, tâm chúng ta phải ở nơi trung đạo, không có tâm thiên lệch về bất cứ bên nào, như chính thiện tà ác, tốt xấu, đúng sai, phải trái, thật giả, tất cả đều nắm được trung đạo. Tâm trung đạo là không thiên vào không và không thiên vào bên có, không thiên về chính thiện pháp và không thiên về xấu tà ác pháp, thật giả, nhân ngã thị phi, chúng ta phải đi vào giữa trung đạo, đó chính là đời sống hiểu biết trí tuệ cao đẳng. Chính pháp của Phật pháp chúng ta nên tiếp cận để tự giác học Phật tu pháp, hoằng dương chính pháp, còn tà pháp chúng ta cũng không được bài trừ, bạn làm cho những điều xấu tà ác quy về chính thiện, thì đó là công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng của bạn, còn không làm cho những điều xấu tà ác, hướng về chính thiện, thì bạn đã phát tâm rồi, tâm có thừa mà lực không đủ, vậy công đức của bạn đã viên mãn thành đạt. “Phát ý viên thành, thì được viên mãn công đức”. 
Bồ tát Đại Thế Chí niệm Phật viên thông chương, dạy chúng ta niệm Phật đạt đến lý nhất tâm bất loạn, “niệm Phật tương tục, nhiếp hết sáu căn”, đó là công phu dùng một tâm, làm bất cứ việc gì, thì cũng phải chuyên nhất làm một công việc liên tục, không gián đoạn, không có tạp niệm, xiên tạp thì việc gì cũng được thành đạt viên mãn, “niệm Phật thành Phật”.
Phật dạy bảo chúng ta, “để tâm vào một chỗ, không việc gì chẳng xong”, không luận bạn làm bất cứ việc gì cho dù khó khăn đến đâu đi nữa, thì chúng ta bằng sự tập trung quyết tâm cao độ, toàn tâm, một lòng, một dạ, một tâm, bền bỉ, kiên định, vững bước, đúng hướng mà làm, để tâm vào một việc không việc gì chẳng xong, tức là không có việc gì khó, mà khó ở chính trong tâm của chúng ta. Chúng ta luôn giữ cái tâm biết ơn đền ơn, “trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường”, ai nói gì chúng ta đều mặc kệ, việc ta ta làm, không liên quan gì đến chúng ta, tức là tâm của chúng ta đã được thanh tịnh tịch diệt, “vô ngã, vô pháp”, không còn phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, có được bồ đề tâm, tâm như như bất động, được minh tâm kiến tính thành Phật.
15. Chế Hạnh Bồ tát, là nói về hành vi tạo tác của thân, khẩu, ý nghiệp của chúng ta, đối với mọi sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, thể hiện bằng tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, có được công phu thiền định đến thanh tịnh tịch diệt cảnh trí. Hành là hành vi, tạo tác, việc làm, hoạt động, sinh hoạt, của chúng ta sao không có sai lầm, khi chúng ta biết sai lầm thì phải sửa đổi, chúng ta cần biết tiết chế, sửa đổi, thay đổi, tự làm mới những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, thì là thành đạt, thông đạt, có được thành tựu quả vị giải thoát sinh tử luân hồi trong sáu cõi, ba đường ác. Pháp thế gian nói, “người không phải là thánh hiền, làm sao không có lỗi”, mọi người thấy được lỗi lầm của mình, thì phải sửa chữa, thay đổi, tự làm mới nó, thì được là chư Phật Như Lai, chư Bồ tát, nếu bạn không chịu sửa chữa lỗi lầm, thì là phàm phu, người thông thường, phải chịu mọi khổ đau, phiền nã o, những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, cho đến khi hết thời gian thọ mạng, bị sinh tử luân hồi trong sáu cõi, ba đường ác, chịu nhiều khổ đau không cùng tận, thật đáng thương xót vô cùng. 
Trung Trụ Bồ tát, thể hiện học vấn, trình độ hiểu biết trí tuệ cao đẳng, Chế Hạnh Bồ tát, thể hiện công phu thiền định thanh tịnh tịch diệt cảnh trí. Chúng ta ở trong đời sống hằng ngày, cần nắm vững nguyên tắc, đạo lý, phương pháp này, mà trải qua ngày tháng tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững, được hưởng đời sống công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, đời sống của Bồ tát Chế Hạnh.
16. Giải Thoát Bồ tát, là sự tinh tấn, rốt ráo tự giác học Phật tu pháp, được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ được những giả tướng, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật Như Lai. Điều này thì chúng ta, ai cũng mong muốn đạt được và Phật giáo đã chân thật làm đến được điều đó, một cách tốt nhất, thẳng tắt viên mãn cứu cánh nhất. Ngày nay nhiều nước trên thế giới điển hình như nước Anh đã đưa Phật giáo vào giáo trình học của tất cả các cấp học như bậc tiểu học, trung học, đại học, nước Anh là nước chủ yếu là theo Kitô giáo, họ đã dẫn đầu về việc này. Quốc gia ra lệnh thực hiện việc này, vì biết được Phật pháp là nền giáo dục trí tuệ cao đẳng, chí thiện, chí công vô tư, mang lại chân thật bình đẳng những lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng cho mọi người trên thế giới và trong cuộc sống hằng ngày được hưởng chân thật sự tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững.
Tóm lại, mười sáu vị Bồ tát làm thượng thủ, làm tổng cương lĩnh, là huyết mạch của toàn Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật. Đức hạnh, danh hiệu của mười sáu vị Bồ tát này, chúng ta đều học được đạt đến viên mn, thì chúng ta đã hiểu thấu được toàn Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật này. Đời sống của chúng ta, chính là đời sống của mười sáu vị Bồ tát trong Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật. Chúng ta tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu được nội dung Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật và lý giải hành chứng được tất cả những giáo lý trong bộ kinh, thì cũng đồng nghĩa với sự thông đạt tất cả các bộ kinh khác trong Phật giáo. Phật giáo là đạo đồng, là dung thông, một bộ kinh thông đạt, thì tất cả các bộ kinh khác đều thông đạt. Phật pháp bình đẳng giúp đỡ chúng ta đạt đến cảnh giới của sự hiểu biết trí tuệ cao đẳng, được chân thật lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A di đà Phật, được công phu niệm Phật thành khối, lý nhất tâm bất loạn, được minh tâm kiến tính, khôi phục được chân như bổn tính, cầu nguyện được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, thành bậc bất thoái tu hành viên mãn thành Phật Như Lai.
 
 
 
Phần VIII.Trí tuệ Phật nơI Phật hoàng trần nhân tông
 
Phật Hoàng Trần Nhân Tông, là người sáng lập ra Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử, duy nhất, đầu tiên mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Ngài lấy tâm con người làm cốt lõi cho việc tu hành các công đức, tâm tức Phật, Phật tức tâm “trực chỉ nhân tâm”, vì trong mọi người, mọi chúng sinh đều có Phật tính và đều được thành Phật trong tương lai. Ngài dung hoà các pháp môn trong Phật giáo, trong đó có pháp môn Thiền tông, là dựa vào sự tự giác của chính bản thân người tu hành và Tịnh Độ tông, là dựa vào cả tự lực và tha lực của chư Phật Như Lai, chư Bồ tát hoặc các thượng thiện tri thức, đã được giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, đã hết lậu hoặc, để cầu giải thoát sinh tử luân hồi trong sáu cõi, ba đường ác. Ngài chủ chương lấy công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, hướng thiện đến chí thiện, bằng việc tự giác học Phật tu pháp, làm đạo đức xã hội và cả dân tộc Việt Nam. Ngài là bậc giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tính thành Phật và hiểu thấu được “vạn pháp nhất như”, tức là vạn pháp quy về một tâm, tâm bồ đề bền vững sinh vạn pháp. Ngài đã dung hoà Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo, “tam giáo đồng nguyên”. Nhưng chân thật thì vạn pháp đều đồng nguyên về một tâm và đều là pháp phương tiện thiện xảo, “vô ngã,vô pháp”, vạn pháp thế gian và pháp xuất thế gian, chỉ có tác dụng để giúp ích cho mọi người, mọi chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới hướng thiện, bỏ tà quy chính, không làm các việc xấu tà ác, làm các việc chính thiện. 
Khi chúng ta chưa hiểu rõ được các pháp thế gian và pháp xuất thế gian, thì tâm chúng ta có sự phân biệt giữa đời và đạo là hai cảnh giới, môi trường, hoàn cảnh, xuất gia, tại gia khác nhau. Còn khi chúng ta tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu được tất cả các pháp thế gian và pháp xuất thế gian, thì đời và đạo là một, không phải là hai, không thể tách rời. Phật pháp là bình đẳng, đời và đạo cũng là bình đẳng như nhau, không có gì khác biệt, tức là đời sống của chúng ta đang ở tại gia, nhưng tâm của chúng ta đã được xuất gia, đã có được nhân duyên may mắn, tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ được những giả tướng, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật Như Lai.
Bài kệ:       “Cõi trần vui đạo, thả tuỳ duyên
    Đói cứ ăn no, mệt ngủ yên
    Của báu trong nhà, thôi khỏi kiếm
    Vô tâm trước cảnh, hỏi chi thiền”
Bốn câu kệ trên nói được một cách rõ ràng, chắc chắn, đúng đắn, chính xác, minh bạch, tường tận cảnh giới giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, tri kiến Phật, Phật tính, trí tuệ Phật, chân như bổn tính, minh tâm kiến tính thành Phật Như Lai, của đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông.
Chúng ta biết cuộc sống “tuỳ duyên”, là cảnh giới của tâm bồ đề bền vững, tức là nói ở cảnh giới thiền định rất sâu, tâm có Định Huệ, tâm vô trụ Niết Bàn. Vì chúng ta biết trong cuộc sống đối nhân sử thế tiếp sự vật, tiếp sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, làm nẩy sinh rất nhiều mâu thuẫn, ràng buộc, tham đắm, cám dỗ, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác. Nó làm cho chúng ta phải sống theo những nguyên tắc, đạo lý, phương pháp, được quy định như pháp luật của Nhà nước và các giới luật trong Phật pháp, khiến cho chúng ta bị động tâm, chi phối, khổ đau, phiền não. Vì những tác động của môi trường hoàn cảnh ô nhiễm xấu tà ác, nghịch cảnh hay thuận cảnh, tất cả đều khiến cho chúng ta rất khó sống cuộc sống “tuỳ duyên”, tự do, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. 
Chỉ có những người tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, có được tâm giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, có tâm thanh tịnh đến tịnh diệt, phát được bồ đề tâm bền vững, được minh tâm kiến tính thành Phật Như Lai, mới sống được cuộc sống “tuỳ duyên”, tự do, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. Chúng ta có bồ đề tâm bền vững, thì tất cả mọi tạo tác, của thân, khẩu, ý nghiệp của họ, làm một cách “tuỳ duyên”, tự nhiên, tự do, ung dung, tự tại, mới đúng được như những nguyên tắc, đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới chính pháp trong Phật pháp. Đã được chư Phật Như Lai thuyết giảng, truyền đạo, giới thiệu Phật pháp, thương sót, giúp đỡ bình đẳng cho chúng ta, có được chân thật những lợi ích công đức hiểu biết trí tuệ cao đẳng, được hưởng cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. Chỉ có người như vậy, mới có cuộc sống một cách “tuy duyên”, tự do, ung dung, tự tại, bình yên bền vững được, mà tất cả các việc họ làm, mới không tạo tội lỗi, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác. 
Khi chúng ta thấy họ làm rất nhiều việc vi phạm giới luật, hoặc có tâm phân biệt, chấp trước, vọng tưởng. Nhưng kỳ thật thì họ không có tâm phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, tâm họ luôn thanh tịnh tịch diệt, minh tâm kiến tính, được giải thoát sinh tử luân hồi trong sáu cõi ba đường ác, được tự do, ung dung, tự tại, bình yên bền vững, không ô nhiễm bụi trần. Do chính chúng ta có tâm phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, mới nhìn thấy điều đó, còn Ngài là tâm vô thượng bồ đề, tâm vô thượng chính đẳng chính giác.
Chúng ta ngày nay học Phật tu pháp, rất khó có thể đạt được cảnh giới của tâm “tuỳ duyên”, vì tâm của chúng ta còn có phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, tâm tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri tà kiến, tự tư tự lợi, ích kỷ keo kiệt, ghen ghét đố kỵ, tự cao tự đại, tâm của lục đạo luân hồi ba đường ác. Để có được tâm “tuỳ duyên”, thì chúng ta phải tinh tấn, tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, lấy khổ làm thầy, lấy pháp luật, giới luật làm thầy. Tức là nói chúng ta nên sống cuộc sống thanh đạm, hiền hoà, khiêm tốn, giản dị, tiết kiệm, chịu khổ, chịu giữ gìn giới luật tinh nghiêm, cũng chính là giữ cho tâm chúng ta luôn vì tất cả chúng sinh bị khổ đau, mà chịu khổ đau thay cho họ. Vì tất cả chúng sinh mê si, mờ mịt, mà giúp đỡ họ, phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, đồng cam cộng khổ với họ, tự mình tu trì giữ gìn giới luật, để sinh định tâm và định tâm sinh trí tuệ, đó chính là tu tam học “Giới Định Huệ”. Đây cũng chính là phương pháp cơ bản, và là nền tảng vững chắc, giúp ích cho chúng ta, vững bước trên con đường tu đạo giải thoát sinh tử luân hồi, trong sáu cõi ba đường ác và thành bậc vô thượng chính đẳng chính giác. 
Như vậy, chúng ta khẳng định tâm của Ngài, chính là tâm vô thượng chính đẳng chính giác, và chỉ có tâm đó mới sống được cuộc sống “tuỳ duyên”, tự do, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. Vì chúng ta, nhân loại trên toàn thế giới, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, truyền đạo, giới thiệu Phật pháp, một cách “tuỳ duyên”, tuỳ ý, tự do, tự tại, theo từng căn cơ, nhân duyên, thiện căn, phước báu, công đức, của từng chúng sinh mà dạy bảo, an bài, thương sót, giúp đỡ bình đẳng cho chúng ta, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, sớm được hiểu thấu Phật pháp và buông bỏ những giả tướng, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật Như Lai.
Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã vì chúng ta, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, mà tập trung dân chủ, đoàn kết thống nhất hoà hợp Phật giáo trong cả nước và sáng lập ra Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử. Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử là nền giáo dục hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chí thiện, chí công vô tư và cũng là pháp phương tiện thiện xảo, để giáo hoá, giúp đỡ, thương sót, truyền đạo, giới thiệu Phật pháp bình đẳng cho chúng ta được hưởng chân thật lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng. Giống như Bổn Sư Thích Ca Mô Ni Phật, đã giáng sinh tại miền bắc ấn Độ, trụ thế suốt tám mươi năm, trong đó có bốn mươi chín năm, giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, đã nói ra vô lượng vô biên Phật pháp và sử dụng 8.400 pháp môn, làm pháp phương tiện thiện xảo để giáo hoá, truyền đạo, thương sót, giúp đỡ, giới thiệu Phật pháp bình đẳng cho chúng ta, đều có được chân thật những lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, trong đời sống hằng ngày được hưởng sự ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. 
Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông, khi Ngài còn là thái tử, lúc mười sáu tuổi, là con trưởng của đức vua Trần Thánh Tông, cháu nội của đức vua Trần Thái Tông, Ngài được lên ngôi vua năm hai mươi mốt tuổi, đã tập trung dân chủ, đoàn kết, thống nhất lãnh đạo nhân dân, cùng với tướng sĩ nhà Trần, đã đánh bại hai lần, quân xâm lược bành chướng Nguyên Mông xấu tà ác nhất thời bấy giờ. Như vậy, nhà vua Trần Nhân Tông được kế thừa nền văn hoá giáo dục truyền thống dân tộc anh hùng, và tinh hoa của nền văn hoá giáo dục của Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo, đã được hun đúc trải nghiệm cuộc sống qua hai cuộc chiến thắng chống quân Nguyên Mông lịch sử, đó cũng là để trải sự luyện tâm. Chính vì lẽ đó Ngài biết rất rõ về cuộc đời con người, cũng như nhân tình thế thái, biết được chân tướng sự thật của tất cả pháp thế gian và pháp xuất thế gian, một cách rõ ràng, minh bạch, tường tận, “vạn pháp đều không”. Tất cả các pháp đều không có thực, do con người có phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, mới biết hiện ra tất cả các sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, còn thực chất là các pháp như huyễn ảo, tất cả đều là những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, hoặc là không có. Chính vì Ngài hiểu thấu được các pháp như vậy, nên đã buông bỏ tất cả kể cả ngai vàng, quyền lực, cung tần mỹ nữ, để xuất gia tu hành các công đức, theo con đường cầu đạo vô thượng chính đẳng chính giác. 
Khi Ngài giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, tín giải hành chứng được các giáo lý giải thoát sinh tử luân hồi trong sáu cõi ba đường ác, đắc đạo quả vị vô thượng chính đẳng chính giác, đã sáng lập ra Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử, để làm pháp phương tiện thiện xảo, giáo hoá, giúp đỡ, thương sót, giới thiệu Phật pháp bình đẳng cho chúng ta sớm được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, tu hành các công đức bằng Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử và với 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Chúng ta tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, được là đệ tử của chư Phật Như Lai, là người nam nữ tại gia hay xuất gia, thì đều tu hành các công đức bằng việc ăn trường chay, ăn trai tịnh, để tu tâm thanh tịnh, nuôi dưỡng tâm từ bi hỷ xả. Chúng ta phát tâm ăn trường chay, ăn trai tịnh, liên tục không gián đoạn, cho đến hơi thở cuối cùng, ăn thanh đạm, ngủ nghỉ vừa đủ hợp lý, khi chúng ta đói và mệt, thì việc làm như thân, khẩu, ý nghiệp rất rẽ mắc sai lầm. Nhưng chúng ta chỉ cần “đói cứ ăn no, mệt ngủ yên”, việc ăn và ngủ cũng không vì chính bản thân mình, chỉ cần ăn no và ngủ yên, có sức khoẻ, trí tuệ tinh thần sung mãn để giúp đỡ mọi người, hoằng dương Phật pháp. 
Khi chúng ta an trường chay thể hiện sự giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, có tâm đại từ đại bi, tâm bồ đề bền vững, không sát hại và không ăn thịt mạng sống của tất cả chúng sinh. Không để chúng sinh, vì chúng ta mà sinh phiền não, đau khổ, hận thù oán tránh chúng ta, và cũng là để nuôi dưỡng, bảo vệ, phát triển tâm từ bi bác ái, bồ đề tâm bền vững, để có được chân thật những lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng. Từ đó chúng ta tinh tấn, rốt ráo tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, Thiền Phái Truc Lâm Yên Tử, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật Như Lai, để có được “thể dụng”, vạn đức, vạn năng, bình đẳng thương sót, giúp đỡ cho mọi người, được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, được phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, tu hành các công đức bằng Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử, hiểu thấu Phật pháp và buông bỏ những giả tướng, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật.
Đức vua Trần Nhân Tông đã tu hành các công đức đạt đến viên mãn chứng ngộ tất cả những giáo lý trong Phật pháp, được giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, thâm nhập, khế nhập vào cảnh giới cao nhất, tri kiến Phật, Phật tính, trí tuệ Phật, đó chính là sự minh tâm kiến tính thành chư Phật Như Lai, biết được chân lý tối thượng thừa, đó chính là trong mỗi chúng ta, nhân loại, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, đều có Phật tính, chân như bổn tính, chân tâm, bản thể, pháp thân, tri kiến Phật, trí tuệ Phật, tâm tức Phật, Phật tức tâm, tâm này là Phật, tâm này làm Phật.
“Của báu trong nhà, thôi khỏi kiếm
Vô tâm trước cảnh, hỏi chi thiền” 
Đây là cảnh giới cao nhất của sự đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tính thành Phật, cảnh giới địa vị cao nhất, chính là tâm vô thượng chính đẳng chính giác. Điều này cũng thể hiện đạo lý, một vị Phật cũng chính là mười phương ba đời chư Phật Như Lai, và mười phương ba đời chư Phật Như Lai cũng chính là một vị Phật Như Lai. Vì tất cả các đức chư Phật Như Lai đều có tâm vô thượng chính đẳng chính giác như nhau bằng nhau, có được công đức, trí tuệ cao đẳng, vô lượng vô biện không có bờ mé giới hạn, tất cả mười phương ba đời chư Phật Như Lai đều có danh hiệu là đức hiệu “A di đà Phật”. Tất cả chư Phật Như Lai đều có cùng một bản thể, pháp thân, chân tâm, chân như bổn tính, Phật tính, tri kiến Phật, trí tuệ Phật là hoàn toàn giống nhau, đồng thể, không một chút sai biệt. 
Tâm của đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông, là tâm thanh tịnh tịch diệt, tâm vô thượng bồ đề, tâm vô trụ Niết bàn sinh ra vạn pháp, để giáo hoá, giúp đỡ, thương sót, truyền đạo, giới thiệu Phật pháp, bình đẳng cho chúng ta có được chân thật những lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng. Tâm Ngài đạt đến cảnh giới “vô tâm trước cảnh, hỏi chi thiền”, chân tâm, tâm như như bất động, một niệm không sinh. Tức là nói hoàn cảnh môi trường bên ngoài, mọi thứ trong vũ trụ nhân sinh này, cho dù có bị ô nhiễm, cám dỗ, xấu tà ác đến đâu đi nữa, cho dù đó là nghịch cảnh hay thuận cảnh, thì cũng không tác động, thay đổi được tâm thanh tịnh tịch diệt của chúng ta, mà chính chúng ta có được tâm bồ đề bền vững, làm cho môi trường hoàn cảnh thuận nghịch, ô nhiễm bên ngoài, phải thay đổi, cải thiện theo ý muốn của chúng ta. Chúng ta làm cho nó trở lên thanh tịnh, hiền hoà, nhưng tâm của chúng ta thanh tịnh tịnh diệt, tâm có Định Huệ, không bị vướng mắc vào mọi thứ như những sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này. 
Phật Hoàng Trần Nhân Tông cùng với mười phương ba đời chư Phật Như Lai, đều có cùng một pháp thân, chân tâm, chân như bổn tính, bản thể, Phật tính, tri kiến Phật, trí tuệ Phật, tâm vô thượng chính đẳng chích giác. Vì Phật với Phật là đạo đồng, đồng công đức, phước báu, đạo đức, hiểu biết trí tuệ cao đẳng viên mãn, đồng thể, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tính thành Phật. Tất cả chư Phật Như Lai đều sử dụng ba thừa pháp làm pháp phương tiện thiện xảo, là đại thừa, nhị thừa và tiểu thừa, nói cách khác là sử dụng thanh văn thừa, duyên giác thừa, bồ tát thừa, Phật thừa, hay sử dụng 8.400 pháp môn, Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử, trong đó có mười pháp môn điển hình, là Tịnh Độ tông, Thiền tông, Luật tông, Mật tông, Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông, Tam Luận tông, Thành Thật tông, Pháp Tướng tông, Câu Xá tông và các đạo lý, phương pháp học Phật tu pháp, như pháp tứ diệu đế, mười hai nhân duyên, mười tám giới, tam phước, lục hoà, tam học, lục độ, mười đại nguyện vương của Bồ tát Phổ Hiền. Và nhiều bộ kinh giáo, như Bộ Kinh Vô Lượng Thọ Phật, Quán Kinh Vô Lượng Thọ Phật, Kinh A Di Đà, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Bát Nhã, Kinh Đại Bát Niết Bàn và nhiều bộ kinh khác. Tất cả các bộ kinh giáo có trong ba đại tạng kinh và mười hai giáo, để làm pháp phương tiện thiện xảo, giới thiệu Phật pháp bình đẳng cho chúng ta chân thật được hưởng những lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, vô lượng vô biên, có được cuộc sống thành đạt, bình yên bền vững. 
Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử là pháp môn tu hành tâm thiền định, để đạt được các cảnh giới của tâm thiền định, thì có rất nhiều phương pháp tu hành, từ thiền tiểu thừa cho đến thiền đại thừa, thiền tối thượng thừa, minh tâm kiến tính thành Phật. Cảnh giới được minh tâm kiến tính thành Phật, chính là “vô tâm trước cảnh, hỏi chi thiền”, nói cho chúng ta rất rõ người làm đến được cảnh giới như vậy, là người đã hoàn toàn giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báu viên mãn. Ngài mới có đủ “thể dụng”, vạn đức, vạn năng, đứng trước cảnh vật, môi trường xung quanh bị ô nhiễm độc hại, nhân tình thế thái, những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, như những cám dỗ của vinh hoa phú quý, danh vọng lợi dưỡng, tài, sắc, danh, thực, thuỳ, thì mới không bị động tâm, thì mới không bị nó rung động, thay đổi, cám dỗ, mê hoặc. Tức là nói cảnh giới “vô tâm trước cảnh, hỏi chi thiền”, cũng đồng với cảnh giới “một niệm không sinh”, “cảnh tuỳ tâm chuyển”, chân tâm, tâm như như bất động, tâm thanh tịnh tịch diệt, định tịch diệt cảnh trí. Đây cũng là nói thật tướng của tất cả các pháp đều là không, tất cả mọi sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, đều là những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng hoặc là không có thật. 
Thiền quán tưởng “vô ngã”, “vạn pháp đều không”, là cảnh giới của tâm đại triệt đại ngộ, tất cả các pháp đều là không, chúng chỉ có “dụng” mà không có “thể”, các pháp đều do nhân duyên sinh và cũng chính do nhân duyên diệt. Vì thế, chúng ta tu hành các công đức đạt đến viên mãn, khôi phục được chân như bổn tính, hay đạt đến được cảnh giới minh tâm kiến tính thành Phật, thì tâm đó chính là cội nguồn sinh ra tất cả các pháp. Vạn pháp đều là pháp phương tiện thiện xảo, giúp đỡ bình đẳng cho chúng ta chân thật có được những lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, được hưởng cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, tuỳ duyên, bình yên bền vững. Chúng ta và tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới đều giác ngộ, đại triệt đại ngộ thật tướng của tất cả các pháp, thì các pháp liền không còn tồn tại, vì tất cả chúng sinh đều đã được thành chư Phật Như Lai, thì không còn dùng đến tất cả các pháp nữa, việc các pháp có, hay không, đều không còn tác dụng. 
Như vậy, chúng ta có thể nói, hai vị chư Phật Như Lai gặp nhau, thì không có pháp để nói, vì đồng một pháp thân, thể tướng, thể tính, bản thể, chân tâm, chân như bổn tính, Phật tính, tri kiến Phật, trí tuệ Phật, đều như nhau. Do đó tất cả các pháp đều giống như nhau, không có gì khác biệt, chỉ là những lời chào hỏi, tán thán tuỳ hỷ công đức. Nhưng chư Phật Như Lai gặp chúng ta, nhân loại, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, thì có vô lượng pháp để nói, để truyền đạo, giới thiệu Phật pháp, với 8.400 pháp môn, ba đại tạng kinh, mười hai giáo, để hoằng pháp lợi sinh, giúp đỡ bình đẳng cho chúng ta, sớm được hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ được vạn duyên luân hồi, phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, tự giác tu hành các công đức, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Phật Hoàng Trần Nhân Tông, khi Ngài xuất gia lên núi Yên Tử, để tu hành các công đức, “tín giải hành chứng”, “giáo lý hành quả”, y giáo phụng hành theo chính pháp Phật pháp, được minh tâm kiến tính thành Phật, được giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, đắc đạo quả vị vô thượng chính đẳng chính giác, sáng lập ra Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử. Ngài hiểu thấu đời người là khổ đau, phiền não, phải chịu rất nhiều thứ khổ, khổ do sinh lão bệnh tử, khổ do sinh ly tử biệt, khổ do tâm tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri tà kiến, tự tư tự lợi, ích kỷ keo kiệt, ghen ghét đố kỵ, tự cao tự đại, phân biệt, vọng tưởng, chấp trước, tham danh vọng lợi dưỡng, vinh hoa phú quý, tài, sắc, danh, thực, thuỳ, nhân tình thế thái, tất cả đều là khổ đau, phiền não, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác. 
Chính vì Ngài hiểu thấu pháp thế gian là vô thường, giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, hoặc không có thật, cho nên Ngài đã buông bỏ tất cả vinh hoa phú quý, danh vọng lợi dưỡng, tài, sắc, danh, thực, thuỳ, ngai vàng quyền lực, cung tần mỹ nữ, tất cả mọi thứ tốt đẹp nhất trên thế gian, Ngài đều có đầy đủ phước báu hưởng thụ suốt cuộc đời không hết. Nhưng Ngài có sự giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, cảnh giác với vô thường, tuy có đầy đủ điều kiện để hưởng thụ cả cuộc đời, nhưng sự hưởng thụ đó chỉ là sự tạo tội nghiệp chướng xấu tà ác, của quả báo luân hồi trong sáu cõi ba đường ác. Chúng ta biết cho dù phước báu được hưởng có nhiều lớn đến đâu đi nữa, cùng lắm cũng chỉ được hưởng mấy chục năm là cùng, vì khi chúng ta được hưởng phước báu, thì cũng là lúc chúng ta đang tạo ra nhiều tội lỗi nghiệp chướng xấu tà ác, như vi phạm ngũ giới, thập thiện và các giới luật khác. Phước báu đó hưởng hết rất nhanh, đến khi phước báu cõi người hưởng hết, thì quả báo nghiệp chướng xấu tà ác liền hiện tiền. Khi đó chúng ta liền bị đoạ lạc vào ba đường ác luân hồi, phải chịu nhiều khổ đau, phiền não, tội lỗi, như lửa lớn thiêu đốt thân người. Thời gian một ngày ở trong địa ngục rất là dài khoảng 1.700 năm so với cõi người, tức là một kiếp người sống cùng lắm được khoảng trăm năm, nhưng so với thời gian trong địa ngục chỉ bằng 1/17/ ngày. 
Chính vì thế mà chúng ta mới biết thời gian một kiếp người, một trăm năm thật ngắn ngủi vô thường, có người vừa mới chịu đoạ đầy khổ đau, phiền não, chịu hết tội lỗi nghiệp chướng xấu tà ác ở trong địa ngục, và tu hành các công đức, từ nhiều đời, nhiều kiếp, được duyên lành, thượng nhân duyên được chuyển thế đầu thai lên làm kiếp người. Được sống một kiếp người, một đời người, khoảng một trăm năm, vì do hưởng phước báu mà không tạo phước báu, mà còn tạo tội nghiệp xấu tà ác ở ba đường ác, khi hết thời gian thọ mạng liền bị đoạ lạc ba đường ác, vào ngay cõi địa ngục, thật đáng thương xót vô cùng. Chính đức vua Trần Nhân Tông đã hiểu thấu được điều đó, Ngài đã buông bỏ tất cả trần duyên thế tục, để xuất gia tu hành các công đức, tín giải hành chứng, giáo lý hành quả Phật pháp, được giải thoát sinh tử luân hồi, giải thoát khỏi vô thường trong sáu cõi luân hồi ba đường ác, thành bậc vô thượng chính đẳng chính giác. Ngài vì lòng thương sót chúng sinh vô hạn, mà đã sáng lập ra Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử, để hoằng pháp lợi sinh, truyền đạo, giúp đỡ chúng ta tu hành các công đức bằng Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử và với 8.400 pháp môn, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật Như Lai.
 
 
 
Phần IX. trí tuệ phật trong tư tưởng Hồ Chí Minh
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển từ nền văn hoá dân tộc Việt nam anh hùng, đã được hun đúc, tạo lập, kết tinh từ những tinh hoa văn hoá lịch sử truyền thống dân tộc, đã được trải nghiệm qua hàng nghìn năm Thăng Long lịch sử, và qua ba cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm cứu nước, xây dựng và bảo vệ nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng. Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành từ sự kế thừa, vận dụng, chuyển hoá linh hoạt, phát triển sáng tạo có chọn lọc từ Chủ nghĩa Mác Lênin, áp dụng vào công cuộc giải phóng, xây dựng và bảo vệ nhân dân, dân tộc Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chính là sự tiếp thu, kế thừa những tinh hoa có chọn lọc của các nền văn hoá nhân loại trên toàn thế giới. Đó là những giá trị tinh hoa văn minh tiến bộ trí tuệ cao đẳng, của các nền văn hoá Phương đông, Phương tây, kim, cổ, trong đó có những nền văn hoá tôn giáo, như Nho giáo, Lão giáo, Chủ nghĩa Mác Lênin và đặc biệt là nền văn hoá giáo dục trí tuệ của Phật giáo.
Tư tưởng Hồ Chí Minh hội tụ tất cả những tinh hoa của nền văn hoá giáo dục nhân loại, trong đó có sự kế thừa, vận dụng, chuyển hoá linh hoạt, phát triển sáng tạo có chon lọc nền văn hoá giáo dục truyền thống dân tộc Việt Nam, Chủ nghĩa Mác Lênin, nền giáo dục của Phật giáo và Nho giáo. Như vậy, chúng ta khẳng định Tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh, là nền văn hoá giáo dục văn minh tiến bộ của nhân loại hiện nay, và trong tương lai, thích ứng với tất cả nền văn hoá giáo dục của tất cả các quốc gia dân tộc, nhân loại trên toàn thế giới. Không phân biệt tôn giáo, đẳng phái, giai cấp, quốc gia dân tộc, mà tất cả đều dung hoà, tập trung dân chủ, đoàn kết thống nhất, hợp tác phát triển hoà bình, bình đẳng cùng có lợi, của cả nhận loại trên toàn thế giới. Nói cách khác Tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh, là nền văn hoá giáo dục đa nguyên văn hoá, giáo dục hiểu biết trí tuệ, chí thiện, chí công vô tư, giúp ích bình đẳng cho chúng ta, nhân loại trên thế giới, có được chân thật những lợi ích công đức, phước báu, đạo đức, hiểu hiết trí tuệ cao đẳng, trong cuộc sống được hưởng sự tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, tuỳ duyên, bình yên bền vững.
Tư tưởng Hồ Chí Minh, thể hiện được tinh thần tập trung dân chủ, đoàn kết thống nhất, hợp tác, hoà bình, phát triển bình đẳng cùng có lợi và tuân thủ theo luật pháp quốc tế trên toàn thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh còn thể hiện được tính nhân đạo, lòng chân thành, thật thà, thành thật, trung thành, khiêm tốn, giản dị, tiết kiệm, thanh tịnh, bình đẳng, giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, từ bi bác ái, bao dung độ lượng, đại từ đại bi, bồ đề tâm bền vững, chí công vô tư, đúng pháp luật của Nhà nước, giới luật trong Phật pháp. Bác Hồ kính yêu của chúng ta không có tâm phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, mà đối với tất cả mọi người, nhân loại trên thế giới, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, đều được bình đẳng thương sót, giúp đỡ cho chúng ta có được chân thật những lợi ích công đức, phước báu, đạo đức, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chí thiện, chí công vô tư, từ bi bác ái, bao dung độ lượng, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, giai cấp, quốc gia, dân tộc, người giàu nghèo, tốt xấu, thiện ác, kể cả đó là kẻ thù. Điều đó thể hiện Ngài có tâm đại từ đại bi, đại bao dung độ lượng, bồ đề tâm bền vững, luôn có tâm thương sót, giúp đỡ bình đẳng đối với mọi người trong nước, cũng như toàn thể nhân loại trên thế giới. 
Tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh, cũng chính là tư tưởng đạo đức phong cách hiểu biết trí tuệ của con người, dân tộc Việt Nam anh hùng, và cũng là tư tưởng phong cách hiểu biết trí tuệ của cả nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới, trong hiện tại và tương lai. Tư tưởng đạo đức phong cách trí tuệ Hồ Chí Minh chính là tấm gương sáng nhất, cho chúng ta và nhân loại học tập, noi theo, để có được chân thật lợi ích công đức, phước báu, đạo đức, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, có được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, tuỳ duyên, bình yên bền vững.
Chúng ta biết cả cuộc đời của Bác Hồ đã hy sinh phụng hiến cho nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng, cho toàn thể nhân loại trên toàn thế giới, không gợn chút riêng tư, không vì một chút quyền lợi của bản thân mình, đây thể hiện Bác Hồ kính yêu của chúng ta, có tâm vô thượng bồ đề bền vững. Bác Hồ đã hy sinh phụng hiến, cống hiến tất cả tận cùng, vì hoà bình, tập trung dân chủ, đoàn kết, thống nhất, hợp tác, phát triển bền vững bình đẳng cùng có lợi, cho nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng, toàn thể nhân loại trên thế giới. 
Bác Hồ sống thật khiêm tốn, giản dị, tiết kiệm, hoà đồng đối với mọi người, nhân dân, nhân loại trên toàn thế giới, giống như Lục hoà kính trong Phật giáo. Ngài không có tâm riêng tư, tất cả những suy nghĩ, lời nói, việc làm của Bác, đều vì những lợi ích công đức, phước báu, đạo đức, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, sự ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững của nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng, và toàn thể nhân loại trên thế giới. Điều này chứng tỏ Bác Hồ có tâm vô thượng bồ đề, tâm vô thượng chính đẳng chính giác, tâm của chư Phật Như Lai.
Tư tưởng đạo đức phong cách hiểu biết trí tuệ Hồ Chí Minh, thể hiện là tâm vô thượng bồ đề bền vững, bao trùm rộng khắp không gian và thời gian, cả cuộc đời của Ngài, như thân, khẩu, ý nghiệp, đều vì lợi ích công đức, phước báu, đạo đức, hiểu biết trí tuệ cao đẳng của nhân dân, dân tộc Việt Nam, nhân loại trên toàn thế giới và chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới. Điều đó thể hiện rất rõ Ngài luôn giữ gìn tâm vô thượng bồ đề bền vững, vì tất cả mọi người khổ nạn mà cứu khổ nạn, vì nhân loại bị áp bức bóc lột, bị làm nô lệ, bị giết hại, thật thương xót vô cùng, mà bảo vệ, quan tâm, giúp đỡ họ, sớm được giải thoát khổ đau, nghèo đói, sinh tử. Vì một thế giới hoà bình, tập trung dân chủ, đoàn kết, thống nhất, hợp tác phát triển bình đẳng cùng có lợi, tất cả nhân loại trên thế giới đều được tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững, được giáo dục, để có được chân thật những lợi ích công đức, phước báu, đạo đức, hiểu biết trí tuệ cao đẳng. Ngài hy sinh phụng hiến cả cuộc đời, không một chút riêng tư, cả cuộc đời Ngài luôn lo lắng, khổ đau, vui buồn cùng nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng, cùng toàn thể nhân loại trên thế giới. Tâm của Ngài chính là tâm vì cuộc sống hạnh phúc, thành đạt, bình yên bền vững của mọi người, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, tâm vô thượng bồ đề, tâm vô trụ Niết bàn, tâm vô thượng chính đẳng chính giác, tâm chư Phật Như Lai. 
Tư tưởng đạo đức phong cách hiểu biết trí tuệ Hồ Chí Minh và nền văn hoá giáo dục hiểu biết trí tuệ cao đẳng của Phật giáo, là hoàn toàn tương đồng, hoàn toàn giống nhau, tuy hai mà là một, không thể tách rời. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tập những giá trị tinh hoa nhất, cốt lõi nhất, của nền giáo dục Phật giáo và Nho giáo, Lão giáo, và nhiều nền văn hoá, tôn giáo, triết học khác trên thế giới, từ cổ đến kim. Như vậy, chúng ta khẳng định thêm nền văn hoá giáo dục nhân loại trong hiện tại và tương lai, chính là nền văn hoá giáo dục của Tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh và Phật giáo. 
Chúng ta muốn xây dựng con người mới, con người của thế kỷ hai mươi mốt, và con người trong tương lai, chính bằng nền văn hoá giáo dục của Phật giáo và Tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh và chỉ có con đường đó mới đem lại bình đẳng cho chúng ta, nhân loại, chúng sinh, có được chân thật những lợi ích công đức, phước báu, đạo đức, hiểu biết trí tuệ cao đẳng. Đạt được cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, tuỳ duyên, bình yên bền vững, được giải thoát khỏi tất cả khổ đau, phiền não, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, sinh tử luân hồi. Đó là đạo lý, tốt đời đẹp đạo, đời và đạo là một thể thống nhất, cùng tương trợ, giúp đỡ nhau không thể tách rời. Chúng ta tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật giáo, Tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó khẳng định, Phật giáo và Tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh, là nền văn hoá nhân loại trên toàn thế giới, trong hiện tại và tương lai. Nền giáo dục đó mới giúp ích được cho mọi người trên thế giới, mọi chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, có được chân thật lợi ích công đức, phước báu, đạo đức, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, trong đời sống hằng ngày được hưởng tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, tuỳ duyên, bình yên bền vững, được hưởng cuộc sống trí tuệ cao đẳng, chí thiện, chí công vô tư. Giúp cho chúng ta có được sự nghiệp cá nhân thành đạt, gia đình hạnh phúc, xã hội công bằng dân chủ văn minh, quốc gia giầu mạnh, thế giới hoà bình, tập trung dân chủ, đoàn kết thống nhất, hợp tác, phát triển bình đẳng cùng có lợi. 
Người dân Việt Nam anh hùng, luôn tự hào và được học tập tấm gương Tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh, tức là nói Tư tưởng đạo đức phong cách trí tuệ Hồ Chí Minh, cũng là tư tưởng đạo đức phong cách hiểu biết trí tuệ của chúng ta, có nghĩa là cuộc sống của chúng ta có đầy đủ tư tưởng đạo đức phong cách hiểu biết trí tuệ Hồ Chí Minh. Chúng ta học tập Tư tưởng đạo đức phong cách trí tuệ Hồ Chí Minh bằng cách, đem tất cả tư tưởng, kiến giải sai lầm, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, sửa chữa, thay đổi, tự làm mới, buông bỏ hết những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng trong vũ trụ nhân sinh này và thay vào đó, là Tư tưởng đạo đức phong cách hiểu biết trí tuệ Hồ Chí Minh. Tư tưởng đạo đức phong cách hiểu biết trí tuệ Hồ Chí Minh, chính là những hiểu biết trí tuệ cao đẳng của chúng ta, của cả dân tộc Việt Nam và toàn thể nhân loại trên thế giới. 
Khi chúng ta tự giác học tập, làm theo, tấm gương Tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh, chúng ta tự giác học tập và làm đến được 100% viên mãn, thì chúng ta chính là Bác Hồ Chí Minh kính yêu, sống mãi trong tâm chúng ta, được tái sinh. Đây là điều vô cùng may mắn, thượng nhân duyên, thiện căn, công đức, phước báu, đạo đức của chúng ta, nhân loại trên toàn thế giới, chúng sinh, mới gặp được Tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chính Minh, Phật giáo và chân thật có được những lợi ích công đức, phước báu, đạo đức, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chí thiện, chí công vô tư, vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn.
Bài hát “Bác Hồ, một tình yêu bao la”, “Người là niềm tin tất thắng”, “Hồ Chí Minh đẹp nhất tên người”, và nhiều bài hát, bài thơ, bài văn viết, hội hoạ, điện ảnh, sân khấu, ca ngợi về Tư tưởng đạo đức phong cách hiểu biết trí tuệ cao đẳng, lòng từ bi bác ái, bao dung độ lượng, tâm bồ đề bền vững của Bác Hồ. Bác Hồ có tình thương yên con người, nhân loại, chúng sinh, thiên nhiên, đất nước, dân tộc Việt Nam anh hùng, một cách sâu sắc chân thành, khiêm tốn, giản dị, tha thiết thanh cao. Chúng ta lý giải ý nghĩa, đạo lý, cảnh giới trong những bài hát, bài thơ, bài văn viết, hội hoạ, điện ảnh, sân khấu đó, một cách bình đẳng thấu triệt, giác ngộ chính giác, từ bi bác ái, bao dung độ lượng, thì điều đó cũng chính là nói trong mỗi con người chúng ta, đã có Tư tưởng đạo đức phong cách hiểu biết trí tuệ cao đẳng, hơi thở, dòng máu của Hồ Chí Minh. 
Như vậy, Tư tưởng đạo đức phong cách trí tuệ Hồ Chí Minh, chính là chư Phật Như Lai thể hiện, vì lòng thương sót, giúp đỡ, bảo vệ con người, nhân loại trên toàn thế giới, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, để cứu khổ cứu nạn, giúp đỡ mọi người bị áp bức, bóc lột, làm nô lệ, đàn áp, giết hại tàn ác, mà tìm ra con đường giải thoát, hoá giải chiến tranh, giải phóng cho nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng và nhân loại trên toàn thế giới. Vì mục đích ai cũng có cơm ăn, áo mặc, được học hành, và quyền được sống, được tự do, được mưu cầu hạnh phúc. Bác Hồ đã vì chúng ta, nhân loại trên toàn thế giới, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, mà hy sinh phụng hiến cả cuộc đời mình, không điều kiện, không một chút riêng tư, không phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, tất cả đều chính xác, đúng đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới chính pháp trong Phật pháp. Tất cả những điều Bác Hồ thể hiện, đều vì lợi ích công đức, phước báu, đạo đức, hiểu biết trí tuệ cao đẳng của chúng ta, nhân loại, chúng sinh, đây chính là tâm của chư Phật Như Lai, tâm vô thượng chính đẳng chính giác. 
Chúng ta tự hào là con cháu của Bác Hồ, thì phải tinh tấn, rốt ráo, tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện và mang trên người những Tư tưởng đạo đức phong cách hiểu biết trí tuệ cao đẳng của Hồ Chí Minh. Đó chính là con người mới, con người cách mạng, có đầy đủ đức tính tốt đẹp, như cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, từ bi bác ái, bao dung độ lượng, đại từ đại bi, tâm bồ đề bền vững. Chúng ta sẵn sàng hy sinh phụng hiến cả cuộc đời, tính mạng, của cải, vật chất và tinh thần, cho sự ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, bình yên bền vững, công đức, phước báu, đạo đức, hiểu biết trí tuệ cao đẳng cho nhân dân, dân tộc Việt Nam và nhân loại trên toàn thế giới. Chúng ta làm được đến như vậy, thì mới được xem là chân thành biết ơn đền ơn Bác Hồ Chí Minh, đền ơn những người anh hùng thương binh liệt sỹ, những người có công với nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng, và nhân loại trên toàn thế giới. Đã hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân tộc toàn vẹn lãnh thổ, giữ gìn thế giới hoà bình, tập trung dân chủ, đoàn kết thống nhất, hợp tác phát triển bình đẳng cùng có lợi. 
Việc học tập theo tấm gương Tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh, hiểu thấu được chân lý nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, từ đó hiểu rộng ra, tất cả nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng là một, cũng như với tất cả nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới là một, là bình đẳng. Tất cả là vì mục đích loại bỏ chiến tranh, mâu thuẫn, cản trở, phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, bảo vệ độc lập tự do dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ của mỗi quốc gia dân tộc trên toàn thế giới, đều được hoà bình tập trung dân chủ, đoàn kết thống nhất, hợp tác phát triển bình đẳng cùng có lợi. 
Chúng ta không phân biệt tôn giáo, đảng phái, giai cấp, dân tộc, hễ là người Việt Nam anh hùng và toàn thể nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới, thà hy sinh tất cả tính mạng, của cải, vật chất và tinh thần, vì một mục đính đất nước Việt Nam được độc lập, nhân dân được tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc và được học hành, giáo dục, cũng như vì một thế giới hoà bình, tập trung dân chủ, đoàn kết thống nhất, hợp tác phát triển bình đẳng cùng có lợi ích công đức, phước báu, đạo đức, hiểu biết trí tuệ cao đẳng. 
Tất cả mọi người, mọi tổ chức, đảng phái, tôn giáo, xã hội, quốc gia, dân tộc nào trên thế giới, trong quá trình xây dựng và phát triển trưởng thành, thì đều có điểm mạnh, thành công, thuận lợi, nhưng cũng có những khó khăn, khuyết điểm, sai lầm. Nhưng biết được khó khăn, khuyết điểm, sai lầm, mà thức tỉnh, mạnh dạn sửa chữa, thay đổi, tự làm mới nó, thì đó chính là sự thành công, thắng lợi tốt đẹp nhất và chỉ có làm như vậy, biết lỗi sửa lỗi thì mới được tồn tại, phát triển văn minh hiện đại bền vững. Chúng ta trong đời sống hằng ngày, trong quan hệ đối nhân sử thế tiếp sự vật, sự việc, hiện tượng, ai mà không có khuyết điểm, sai trái, lỗi lầm, nhưng biết mình có khuyết điểm, sai trái, lỗi lầm, mà tiếp thu, tiếp nhận nó, để sửa chữa, thay đổi, tự làm mới nó, thì chúng ta liền có kết quả tốt như mong muốn. 
Như vậy, có thể nói chúng ta biết mình, như thân, khẩu, ý nghiệp có khuyết điểm, sai trái, lỗi lầm, tội lỗi xấu tà ác, mà biết sửa chữa, thay đổi, tự làm mới nó, chuyển những điều tội lỗi xấu tà ác, thành những điều chính thiện tốt lành công đức, phước báu, đạo đức, hiểu biết trí tuệ cao đẳng. Điều đó giúp chúng ta chuyển được nghiệp thành nguyện, chuyển phàm thành thánh, chuyển tâm phiền não thành tâm bồ đề bền vững, tâm chư Phật Như Lai. Còn ngược lại, chúng ta không chịu sửa chữa lỗi lầm thì vẫn chỉ là phàm phu, người đau khổ, phiền não, tập tính nghiệp chướng xấu tà ác, như lửa lớn thiêu đốt thân người, thật đáng thương xót vô cùng.
Học tập theo tấm gương Tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh, hiểu thấu được những điều, mà Bác Hồ kính yêu của chúng ta dạy bảo, hướng dẫn, giới thiệu những nguyên tắc, đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới chính pháp. Để giúp ích cho chúng ta và nhân loại trên toàn thế giới, có được chân thật những lợi ích công đức, phước báu, đạo đức, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, vô lượng vô biên. Từ đó chúng ta nhận thức sâu sắc, hiểu thấu được chân lý, về sự biết ơn đền ơn, đối với nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng, cũng như nhân loại tiến bộ trên thế giới, đã vì chúng ta, mà hy sinh tất cả tính mạng, của cải, vật chất và tinh thần, để mang lại sự ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, bình yêu bền vững như ngày hôm nay. Chúng ta có được đầy đủ các quyền lợi, như quyền được sống, quyền được tự do, quyền được mưu cầu hạnh phúc và nhiều quyền lợi công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, mà chúng ta đang được hưởng. Tất cả những quyền lợi đó, có được là do sự hy sinh tất cả tính mạng, của cải, vật chất và tinh thần của tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị và những người đi trước, đã có công xây dựng và bảo vệ nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng. Chính vì thế, chúng ta được kế thừa và phát triển những tinh hoa của nền văn hoá giáo dục Tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh và của nền văn hoá giáo dục truyền thống lịch sử về lòng yêu nước, thương nhân dân vô bờ bến của ông cha ta. 
Chúng ta cần phải luôn luôn giữ gìn tâm biết ơn đền ơn, nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng, nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới và quyết tâm tinh tấn, rốt ráo, tự giác học tập tấm gương Tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh, để trở thành một con người mới, con người cách mạng, con người có đầy đủ đức tính năng lực phẩm chất tốt đẹp, như cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, từ bi bác ái, bao dung độ lượng. Đối với tất cả mọi người, luôn là tâm chân thành, thật thà, trung thực, hiền hoà, dung hợp, khiêm tốn, giản dị, tiết kiệm, thanh tịnh, bình đẳng, giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, từ bi bác ái, bao dung độ lượng, đại từ đại bi, tâm bồ đề bền vững. Chúng ta sẵn sàng hy sinh phụng hiến, quan tâm, thương sót, giúp đỡ bình đẳng cho mọi người, nhân loại trên thế giới, có được cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững, được hướng dẫn, chỉ đạo, truyền đạo, giới thiệu các nguyên tắc, đạo lý, phương pháp chính pháp, giúp ích cho mọi người hiểu thấu được Tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh và Phật giáo. Từ đó giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, buông bỏ tất cả mọi thói hư tật xấu, tập tính nghiệp chướng xấu tà ác, những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng trong vũ trụ nhân sinh này, sự tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri tà kiến, ích kỷ keo kiệt, ghen ghét đố kỵ, tự tư tự lợi, tự cao tự đại, tâm phân biệt, vọng tưởng, chấp trước, chấp hành đúng pháp luật của Nhà nước và giữ gìn giới luật tinh nghiêm trong Phật giáo.
 Đây là việc mà chính chúng ta tự giác cầu chính chúng ta, phát được bồ đề tâm bền vững, không phải chúng ta cầu những việc ở bên ngoài, hoặc cầu người khác làm giúp, việc cầu người thì rất khó. Nhưng việc này là chính chúng ta cầu chúng ta, tự giác học tập theo tấm gương Tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh và trí tuệ Phật. Như vậy, thì có gì khó đâu, chúng ta nhất định tự giác học tập được Tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh và học Phật tu pháp, hiểu thấu được Phật pháp và Tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh, thì nhất định phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Người thật sự thông minh, tài giỏi và có hiểu biết trí tuệ cao đẳng, là người thiện tri thức, có hiểu biết, thông đạt tất cả pháp thế gian và pháp xuất thế gian, có được tâm chân thành, thật thà, trung thành, uy tín, hiền hoà, khiêm tốn, giản dị, thanh tịnh, bình đẳng, giác ngộ hiểu biết trí tuệ cao đẳng, từ bi bác ái, bao dung độ lượng, bồ đề tâm bền vững, biết kính trọng bình đẳng đối với mọi người, mọi vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, và là người biết ơn đền ơn, “trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường”, tuân thủ pháp luật của Nhà nước, các giới luật trong Phật giáo, chủ động, tích cực, tự giác học tập Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, buông bỏ những giả tướng, được hưởng sự ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, bình yên bền vững, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật Như Lai.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi Ngài còn trụ thế gần tám mươi năm, đã làm ra tấm gương sáng nhất, chân thật nhất, để dạy bảo, hướng dẫn, thương sót, khuyên bảo bình đẳng cho chúng ta, nhân loại trên toàn thế giới, có được chân thật những lợi ích công đức, phước báu, đạo đức, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chí thiện, từ bi bác ái, bao dung độ lượng, chí công vô tư. Giúp đỡ chúng ta được trở thành con người mới, con người cách mạng, sẵn sàng hy sinh phụng hiến tất cả tính mạng, của cải, vật chất và tinh thần cho nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng, cho toàn thể nhân loại trên thế giới. Từ đó tự giác học tập tấm gương Tư tưởng, đạo đức, phong cách, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chí công vô tư của Hồ Chí Minh và tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu được những nguyên tắc, đạo lý nhân quả, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới chính pháp trong Phật pháp và buông bỏ những giả tướng, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật Như Lai. 
Cả cuộc đời của Ngài, đã hy sinh phụng hiến cho nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng, cho nhân dân, nhân loại trên toàn thế giới, bằng tâm bồ đề bền vững, chí công vô tư, một tình yêu bao la, bình đẳng đối với mọi người, nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng, nhân loại trên toàn thế giới, không một chút riêng tư, không một chút điều kiện. Tất cả việc đó là tự nguyện, tự giác, chí công vô tư, tâm bồ đề bền vững, tâm vô thượng chính đẳng chính giác, vượt lên trên tất cả những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác và thương sót, giúp đỡ, bình đẳng cho chúng ta, nhân loại trên toàn thế giới, một cách chí công vô tư. 
Bác Hồ đã hy sinh phụng hiến tất cả cuộc đời cho nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng và cho toàn thể nhân loại trên toàn thế giới. Chính vì tình thương yêu con người vô lượng vô biên, mà Bác Hồ kính yêu của chúng ta, đã không xây dựng gia đình, không lo đến sự hưởng thụ hạnh phúc, thành đạt, vinh hoa phú quý, danh vọng lợi dưỡng, tài, sắc, danh, thực, thuỳ của chính mình. Bác Hồ đã hy sinh phụng hiến triệt để, mọi mặt toàn diện đời sống cá nhân, tất cả vì mục đích định hướng, đúng đắn, chính xác, mang lại lợi ích công đức, phước báu, đạo đức, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, sự tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững, cho chúng ta, nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng và cho toàn thể nhân loại trên toàn thế giới. Tức là Ngài phát được tâm vô thượng bồ đề bền vững, tâm chí công vô tư, bao trùm rộng khắp không gian, thời gian, khắp các pháp giới chúng sinh, với một tình yêu bao la vượt lên trên tất cả quyền lợi cá nhân, tình yêu đôi lứa, so với tình yêu thương của cha mẹ đối với con cái, còn sâu đậm lớn hơn rất nhiều lần, vô lượng vô biên. Điều này được thể hiện chân thật là “trung với nước hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Như vậy, tâm của Bác Hồ chính là tâm vô thượng bồ đề, tâm đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tính, chí công vô tư, tâm vô thượng chính đẳng chính giác, thương sót, giúp đỡ bình đẳng đối đãi với tất cả nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng, nhân loại trên toàn thế giới, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, giống như sự quan tâm, thương sót, giúp đỡ đối với cha mẹ, con cái của chính mình, còn sâu đậm hơn rất nhiều lần, tình thương sót vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn. 
Tâm chí công vô tư, bao gồm tất cả các tâm chân thành, thật thà, thành thật, trung thực, trung thành, hiền hoà, khiêm tốn, giản dị, tiết kiệm, cao thượng thanh tịnh, giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, từ bi bác ái, bao dung độ lượng, đại từ đại bi, bồ đề tâm bền vững. Chúng ta tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ được những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng trong vũ trụ nhân sinh này, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm bền vững, như vậy việc giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, phát được bồ đề tâm bền vững là quá trình “tự giác”, còn việc giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, phát được tâm chí công vô tư là quá trình “giác tha” và “hành giác”, do đó để có được tâm chí công vô tư thì đã phải có sự “tự giác”, có được tâm bồ đề bền vững, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tính thành Phật thì mới có đủ “thể dụng”, vạn đức, vạn năng để “giác tha” và “hành giác”. 
Tự giác, là việc tinh tấn, rốt ráo, chủ động, tích cực học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, phát được bồ đề tâm bền vững, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tính thành Phật, giống như Bổn Sư Thích Ca Mô Ni Phật, ngồi dưới cội bồ đề sau bốn mươi chín ngày đêm được đại thiền định, minh tâm kiến tính thành Phật.
Giác tha là việc sau khi đã được giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng, phát được bồ đề tâm bền vững, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tính thành Phật, có được “thể dụng”, vạn đức, vạn năng, giống như Bổn Sư Thích Ca mô Ni Phật đã lập ra ba thừa pháp, làm pháp phương tiện thiện xảo, để “giác tha”, quan tâm, giúp đỡ, thương sót bình đẳng tất cả mọi người, nhân loại trên toàn thế giới, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, được nghe giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng trong vũ trụ nhân sinh này, và tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính, khôi phục được chân như bổn tính, Phật tính, tri kiến Phật, trí tuệ Phật, nhất hướng chuyên niệm A di đà Phật, đức Phật Hồ Chí Minh được công phu niệm Phật thành khối, lý nhất tâm bất loạn, trí thành tha thiết cầu nguyện được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, thành bậc bất thoái tu hành viên mãn thành chư Phật Như Lai.
Hành giác, chính là việc “chí công vô tư”, giống như Bổn Sư Thích Ca Mô Ni Phật, sau khi Ngài “tự giác”, với bốn mươi chín năm giảng kinh thuyết pháp, vì người diễn nói là quá trình “hành giác” của Ngài. Như vậy quá trình “hành giác” bao gồm sự “tự giác”, “giác tha”, tức là nói tâm chí công vô tư là việc giúp đỡ, quan tâm, thương sót bình đẳng tất cả mọi người, nhân loại trên toàn thế giới, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, vô tư, không điều kiện, vô ngã,vô pháp, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng, không dính tướng ta vào tướng người, cũng như tất cả các tướng sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, vì tất cả các tướng đó đều là những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng.
Tư tưởng đạo đức phong cách hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chí công vô tư của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được ví như chân lý của loài hoa sen, thuần khiết, cao thượng, thanh tịnh đến tịch diệt, chỉ cho việc tu nhân, mà quả báo đạt được là quả Phật cứu cánh viên mãn tròn đầy.
Chân lý của loài hoa sen. 
Bài thơ của tác giả Phùng Quán:
“Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”
Bài thơ của tác giả Bảo Định Giang:
“Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ
Bông sen dành để lễ chùa
Bác Hồ mãi mãi tôn thờ trong tâm”
Chúng ta biết bông sen được lớn lên, tạo thành từ bùn đất, nước, gió, lửa đó chính là tuân thủ theo quy luật tự nhiên, như sinh trụ dị diệt, tứ diệu đế, mười hai nhân duyên, mười tám giới, tất cả mọi thứ như sự vật, sự việc, hiện tượng, chúng sinh trong vũ trụ nhân sinh này đều như vậy. Bông sen được sinh ra từ bùn đất ô nhiễn hôi tanh, mà không bị nhiễm những tạp chất ô nhiễm hôi tanh đó, mà ngược lại toả hương thơm mát trong sạch, thanh tịnh đến tịch diệt. Chính vì tính chất thuần khiết, thanh tịnh, hiền hoà, thanh cao, mà hoa sen được lấy làm ví dụ so sánh tượng trưng cho việc tu nhân của chúng ta, những người học Phật tu pháp, mà quả báo là quả Phật cứu cánh viên mãn. Bùn đất hôi tanh, ô nhiễm, lấy làm ví dụ so sánh tượng trưng cho hoàn cảnh môi trường sống của chúng ta, đang bị ô nhiễm, bởi năm dục, sáu trần, ô nhiễm bởi tâm tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri tà kiến, tự tư tự lợi, ích kỷ keo kiệt, ghen ghét đố kỵ, tự cao tự đại, tâm phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, chiến tranh, bệnh hoạ, khổ đau, phiền não và các việc xấu tà ác làm giản tuổi thọ, tự hại người hại mình. Bùn đất hôi tanh cũng là tượng trưng cho sáu cõi luân hồi ba đường ác, là cõi trời, người, a tu la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, còn nước là tượng trưng cho cảnh giới tam thánh, là Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát và khoảng không khí, là cảnh giới của chư Phật Như Lai. 
Tất cả những thứ ô nhiễm đó, cản trở chúng ta tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát bồ đề tâm. Hoa sen không những thoát khỏi bùn đất hôi tanh, không bị ô nhiễn mùi bùn, mà còn siêu việt vượt lên trên cả mặt nước, không bị nước làm vướng bận, dính bám, mà hoa sen toả hương thơm ngào ngạt, mát lành, tinh khiết, êm dịu, lung linh toả sáng giữa không gian và thời gian không cùng tận. Đây là cảnh giới cao nhất của việc tu nhân, mà quả báo đạt được là quả Phật cứu cánh viên mãn. 
Hoa sen được sinh ra phát triển trưởng thành từ trong bùn đất hôi tanh và nước, mà lại không bị bùn đất hôi tanh và nước làm ô nhiễm, vướng bận, mà hoa sen siêu việt vượt lên tất cả những thứ đó, gìn giữ được sự thanh tịnh tịch diệt của hoa sen. Điều này thể hiện một chân lý, đạo lý tốt đẹp nhất, để chúng ta tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, biết được những nguyên tắc, đạo lý, chân lý, phương pháp, cảnh giới, cho dù chúng ta ở hoàn cảnh, môi trường bên ngoài là nghịch cảnh, ô nhiễn trầm trọng đến cùng cực, hay là thuận cảnh, nhưng cũng không làm tác động thay đổi được tâm bồ đề thanh tịnh bền vững, tâm chí công vô tư của chúng ta. Nói cách khác, chúng ta luôn giữ gìn tâm thanh tịnh đến tịch diệt, không để cho môi trường hoàn cảnh bên ngoài tác động xấu tà ác, ô nhiễm đến tâm của chúng ta, mà chính chúng ta dùng tâm thanh tịnh đến tịch diệt, tâm có Định Huệ, tác động ngược trở lại môi trường hoàn cảnh bên ngoài bị ô nhiễm, xấu tà ác, làm cho chúng trở lên tốt đẹp tinh khiết, hiền hoà thanh tịnh tịch diệt như tâm của chúng ta, đây gọi là hoàn cảnh môi trường tuỳ thuận tâm thanh tịnh của chúng ta. 
Như vậy, chúng ta thấy hoa sen không những được sinh ra nuôi dưỡng phát triển trưởng thành từ trong bùn đất hôi tanh và nước, nhưng không bị ô nhiễm bởi bùn đất hôi tanh và nước đó, mà còn siêu việt lên trên tất cả những thứ đó, để nở hoa kết trái thơm mát, tinh khiết, thanh tịnh. Điều đó tuy là tốt đẹp nhất, nhưng cũng không phải điều hiếm lạ, dễ nhận thấy, thường gặp, mà hoa sen còn được sinh ra nuôi dưỡng phát triển trưởng thành từ trong “lửa”, “lửa” là tượng trưng cho hồng trần uế độ, năm dục, sáu trần của chúng ta. Chúng ta sống trong một thế giới bị ô nhiễm, bởi hoàn cảnh môi trường sống, như thất tình lục dục, như những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, tâm tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri tà kiến, tự tư tự lợi, ích kỷ keo kiệt, ghen ghét đố kỵ, tự cao tự đại, tham vinh hoa phú quý, danh vọng lợi dưỡng, tài, sắc, danh, thực, thuỳ, sự phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, gây ra cho chúng ta rất nhiều đau khổ, phiền não, giống như bị lửa lớn thiêu đốt thân chúng ta vậy. Nhưng chúng ta biết tất cả những thứ đó, cũng là những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, không có thật, chính vì chúng ta hiểu thấu được những điều đó, mà chúng ta quyết tâm tinh tấn tự giác học Phật, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A di đà Phật, Chủ tịch Hồ Chí Minh, được minh tâm kiến tính, khôi phục được chân như bổn tính, trí thành tha thiết cầu nguyện được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, thành bậc bất thoái tu hành viên mãn thành chư Phật Như Lai.  
Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi còn trụ thế Ngài giống như bông hoa sen thơm mát, tinh khiết, tươi sáng, thanh cao, thanh tịnh đến tịch diệt, vô nhiễn bụi trần, Bác Hồ nói: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào”. Điều này khẳng định Bác Hồ đã được giải thoát khỏi tất cả năm dục sáu trần, lìa bỏ được tất cả những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, đó là tham danh vọng lợi dưỡng, vinh hoa phú quý, tài, sắc, danh, thực, thuỳ, tâm tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri tà kiến, tự tư tự lợi, ích kỷ keo kiệt, ghen ghét đố kỵ, tự cao tự đại, tâm phân biệt, chấp truớc, vọng tưởng cũng không còn. Thay vào đó, là tâm vô thượng bồ đề bền vững, tâm vô thượng chính đẳng chính giác, tâm bình đẳng đối nhân sử thế, tiếp sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này. Bác Hồ thương sót, hướng dẫn, giúp đỡ thiết thực cho tất cả mọi người, nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng và toàn thể nhân loại trên thế giới, có được chân thật những lợi ích công đức, phước báu, đạo đức, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. 
Chủ tịch Hồ Chí Minh được sinh ra và lớn lên từ làng Sen Nam Đàn, khi đất nước bị xâm chiếm, đô hộ, áp bức, chiến tranh tàn phá chết chóc, đau thương, nhân dân bị lầm tham, nghèo đói, sát hại, bóc lột, chịu bao nhiêu nỗi khổ đau, mất mát, cả về tính mạng, của cải, vật chất và tinh thần, không thể tính đến hết, thật đáng thương xót vô cùng. Trước cảnh tượng đau thương sót xa đó, Bác Hồ vì lòng yêu nước, thương nhân dân vô bờ bến, đã quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước, cứu nhân dân. Bác Hồ đã được tiếp xúc trải nghiệm với rất nhiều nền văn hoá giáo dục trên thế giới, như chủ nghĩa Mác Lênin, nền văn hoá giáo dục Phât giáo, Nho giáo, Lão giáo, cũng như rất nhiều nền văn hoá giáo dục phương tây, phương đông, kim, cổ. Bác Hồ đã tiếp nhận, kế thừa, chuyển hoá, vận dụng linh hoạt, có chọn lọc kết hợp phát triển với nền văn hoá giáo dục truyền thống yêu nước thương nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng, đã được hun đúc kết tinh chon lọc những tinh hoa trải qua bốn nghìn năm lịch sử. Tất cả những giá trị tinh hoa văn hoá giáo dục trí tuệ cốt lõi nhất của các nền văn hoá, tôn giáo, triết học, đảng phái, giai cấp, quốc gia dân tộc trên toàn thế giới đó, được hội tụ, hợp thành, nền văn hoá giáo dục Tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh. Nói cách khác, nền văn hoá giáo dục Tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh, chính là nền văn hoá giáo dục của nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng, và của toàn thể nhân loại trên thế giới, trong hiện tại và hướng tới tương lai. Vì một thế giới hoà bình, tập trung dân chủ, đoàn kết thống nhất, hợp tác phát triển bình đẳng cùng có lợi ích công đức, phước báu, đạo đức, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chí công vô tư. 
Bác Hồ nói: “Mỗi người tốt, việc tốt, là một bông hoa đẹp, cả dân tộc ta là một rừng hoa đẹp”. Đây là sự so sánh ẩn dụ rất tinh tế tài hoa, nhưng cũng rất thực tế trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, điều đó thể hiện sự bình đẳng không phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, chúng ta tự giác học tập tư tưởng đạo đức phong cách hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chí công vô tư, tạo được nhân là loài hoa gì, việc tốt gì. Tất cả những việc tốt đẹp đó, mang lại được những lợi ích công đức, phước báu, đạo đức, hiểu biết trí tuệ cao đẳng chân thật cho nhân dân, dân tộc Việt Nam anh hùng và cho nhân loại trên toàn thế giới. Vì mục đích thế giới hoà bình, tập trung dân chủ, đoàn kết thống nhất, hợp tác phát triển bình đẳng cùng có lợi, thì đó là những bông hoa đẹp, rừng hoa đẹp, trong đó hoa sen thể hiện việc tu nhân được viên mãn nhất, được giác ngộ chính giác hiểu biết trí tuệ cao đẳng. Hoa sen, là nhân của quả Phật cứu cánh viên mãn, còn các loài hoa khác tượng trưng cho cảnh giới ba thánh, là Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, tất cả đều tốt đẹp bình đẳng như nhau, không phân biệt, chấp trước, vọng tưởng. 
Như vậy, chúng ta quyết tâm tinh tấn tự giác học tập, tu dưỡng theo tấm gương Tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh, đức Bổn Sư Thích Ca Mô Ni Phật, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ được những giả tướng, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính, khôi phục được chân như bổn tính, nhất hướng chuyên niệm A di đà Phật, Hồ Chí Minh được công phu niệm Phật thành khối, lý nhất tâm bất loạn, cầu nguyện được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc, tu hành viên mãn thành chư Phật Như Lai.
 
 
 
Phần X.Phụ lục
Giới thiệu về một số học thuyết, tôn giáo trên thế giới
 
1. Nho giáo, là nền văn hoá giáo dục nhân bản, để mỗi cá nhân hùng tâm gắng nhân văn hoá bản chất của mình, đảm bảo trật tự hài hoà cho xã hội cũng như nơi chính mỗi người. Chúng ta hiểu thấu Nho giáo và làm theo đến được người hoàn thiện, “chính nhân, quân tử, minh nghĩa, chí thiện”, có những đức tính tốt đẹp như “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”, đây được gọi là ngũ thường. Ngũ luân là mối quan hệ giữa “vua tôi, cha con, vộ chồng, anh em, bạn bè”, vì trong cuộc sống hằng ngày trong quan hệ sử thế tiếp sự vật, sự việc, hiện tượng, của tất cả mọi thứ trong vũ trụ nhân sinh này, làm nảy sinh rất nhiều mâu thuẫn, bất hoà, do những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, cho nên cần phải giữ gìn xây dựng điều luật, phát triển chính đạo “chính nhân, quân tử, minh nghĩa, chí thiện”. Nho giáo giúp cho chúng ta có được sự nghiệp thành đạt, được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. 
Ngũ luân là nói trong gia đình có mối quan hệ tình cảm cha mẹ đối với con cái, là tình thương yêu, quan tâm, nuôi dưỡng, dậy bảo, giúp đỡ các con bằng tất cả tình thương, của cải, vật chất và tinh thần. Còn về tình cảm của con cái đối với cha mẹ, là tấm lòng biết ơn đền ơn, biết công cha nghĩa mẹ, hiếu dưỡng cha mẹ, đến tận hiếu dưỡng cha mẹ, ông bà, tổ tiên dòng họ, trong quan hệ anh em, người thân, họ hàng trên dưới, thương yêu, giúp đỡ nhau mọi mặt toàn diện tiến bộ trong đời sống sinh hoạt vật chất và tinh thần. Trong quan hệ vợ chồng thì cần xây dựng được sự ấm no, tự do, tôn trọng, thương yêu, hạnh phúc, hoà thuận, hiểu biết, thông cảm, bao dung độ lượng với nhau, cùng nhau chia sẻ quan tâm, giúp đỡ, kính trọng với nhau, cùng chung tay xây dựng cuộc sống gia đình thuận hoà, hạnh phúc, ấm no, bình yên bền vững. Trong quan hệ với bạn bè bằng hữu, thì cần phải tôn trọng, giúp đỡ, hoà đồng, uy tín, tin tưởng, hợp tác với nhau cùng có lợi, cần phải sống chân thành, thật thà, thành thật, trung thực, khiêm tốn, giản dị, tiết kiệm, hiểu biết, tình cảm thân thiết, giúp đỡ, hợp tác, tin tưởng, chia sẻ, tôn trọng, tích cực đoàn kết thống nhất tiến bộ tất cả mọi mặt toàn diện những thuận lợi, khó khăn, trong cuộc sống hằng ngày. Trong quan hệ xã hội, các tổ chức hội quần chúng, các cơ quan, công sở, nhà máy, xí nghiệp, đối với đại chúng nhân dân, quốc gia, dân tộc và toàn thể nhân loại trên toàn thế giới, cần phải có đầy đủ “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”. Tức là nói, chúng ta cần hoàn thiện bản thân như việc sửa chữa, thay đổi, tự làm mới, để trở thành người tốt, hoàn thiện, có đủ tài đức, trình độ hiểu biết trí tuệ cao đẳng, được gọi là “chính nhân, quân tử, minh nghĩa, chí thiện”, người tốt có ích cho xã hội, quốc gia, dân tộc, nhân loại trên toàn thế giới. Từ việc tu thân có hiểu biết trí tuệ, thì phải đối đãi với mọi người, cần có lễ kính, lễ tiết, đúng mức độ, phù hợp với mọi hoàn cảnh môi trường, phong tục tập quán, tôn giáo, đảng phái, quốc gia, dân tộc, nhân loại trên toàn thế giới. 
Người chính nhân quân tử minh nghĩa chí thiện, có trình độ hiểu biết trí tuệ, thì cần phải có nghĩa vụ, trách nhiệm, thương yêu, giúp đỡ bình đẳng đối với mọi người, mọi tổ chức quần chúng trong xã hội, quốc gia, dân tộc, nhân loại trên toàn thế giới. Vì sự tập trung dân chủ, đoàn kết thống nhất, hợp tác phát triển hoà bình bền vững bình đẳng cùng có lợi. Chúng ta làm được việc đó, đòi hỏi cần phải có trình độ hiểu biết trí tuệ cao đẳng, có khả năng, trình độ hiểu biết trí tuệ, chính xác, để truyền đạo, giới thiệu đạo Nho giáo, bình đẳng cho tất cả mọi người, nhân dân, dân tộc, nhân loại trên toàn thế giới, một cách chân thật, uy tín nhất. Để mang lại chân thật uy tín cho chúng ta, cũng như toàn thể nhân loại trên thế giới, có được lợi ích công đức, phước báu, trình độ hiểu biết trí tuệ cao đẳng. 
Chúng ta cần phải học tập tu dưỡng rèn luyện tự giác học Nho giáo và hiểu thấu Nho giáo, thực chứng được các đạo lý, giáo lý, phương pháp như “cách vật trí tri, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, để trở thành bậc thánh nhân, hiền nhân, “chính nhân, quân tử, minh nghĩa, chí thiện”. Từ đó có đầy đủ khả năng, công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, với mục đích giúp đỡ, thương sót, truyền đạo, giới thiệu Nho giáo và mang lại chân thật lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, cho tất cả mọi người, nhân dân, dân tộc và toàn thể nhân loại trên toàn thế giới. Với mục đích định hướng tập trung dân chủ, đoàn kết thống nhất, hợp tác, hoà bình, xây dựng phát triển toàn diện mọi mặt đời sống như văn hoá xã hội, an ninh chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật, bình đẳng tôn trọng luật pháp quốc tế cùng có lợi.
Nho giáo, gồm có ngũ kinh (Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu) và tứ thư (Luận Ngữ, Đại Học, Trung Dung, Mạnh Tử) là tư tưởng đạo đức phong cách hiểu biết trí tuệ cao đẳng của đức Khổng Tử. Ngũ kinh, tứ thư giúp cho chúng ta, cũng như toàn thể nhân loại, biết được kiến thức hiểu biết về lịch sử của các thời đại vua chúa, qua nhiều đời và những thành công và thất bại, thịnh suy của từng thời đại, những nhân vật danh nhân hào kiệt nổi tiếng. Trong đó bao gồm tất cả những sự đúng sai, thật giả, phải trái, tốt xấu, chính tà thiện ác, chính nhân quân tử minh nghĩa chí thiện, có công với nhân dân, dân tộc, nhân loại trên toàn thế giới, hay là tiểu nhân, phàm phu xấu tà ác, có hại cho nhân dân, cho quốc gia, dân tộc, nhân loại trên toàn thế giới. Từ đó đúc kết, học tập, lĩnh hội, kế thừa, có chon lọc những bài học kinh nghiệm, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chí thiện, cao quý, tốt đẹp nhất, cũng như loại bỏ, sửa chữa, thay đổi, tự làm mới những điều sai trái, khuyết điểm, yếu điểm, tội lỗi, lỗi lầm, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác của họ, để mang lại chân thật cho chúng ta có được những lợi ích công đức, phước báu, trình độ, kinh nghiệm, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chí thiện.
 Chúng ta quyết tâm tinh tấn, rốt ráo tu học Nho giáo, hiểu thấu Nho giáo, biết được nhân tình thế thái, biết cách đối nhân xử thế. Sự đối đãi với sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, cần phải hướng tới sự trung dung, trung đạo. Tức là chúng ta cần sống dung hoà, trung dung, như thân, khẩu, ý nghiệp, làm các việc chính thiện tốt lành, nhưng cũng không được bài bác, chỉ trích, phá hoại, lật đổ, những điều sai trái, tội lỗi, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, mà cần phải chân thành, khiêm tốn, góp ý xây dựng, giúp đỡ họ, bỏ tà quy chính, bỏ ác tu thiện thì tốt. Chúng ta cần giữ thái độ, lập trường tư tưởng ở trung dung, trung đạo, trung lập, không thiên lệch mà đứng ở giữa, chính thiện xấu tà ác, phải trái, thật giả, đúng sai, nhân ngã thị phi, là nói ở hai bên, chúng ta giữ tâm thân, khẩu, ý nghiệp ở giữa, không thiên về bên có, cũng không thiên về bên không, để giúp đỡ họ. 
Khi chúng ta hiểu thấu Nho giáo, thực chứng được giáo lý, thì được thành bậc “chính nhân, quân tử, minh nghĩa, chí thiện” có được công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, đại trượng phu, đại nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, trong cuộc sống hằng ngày có được sự ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. Nhưng để đạt được cảnh giới cao nhất, được giải thoái sinh tử luân hồi, thì chúng ta cần phải tự giác học Phật tu pháp, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ những giả tướng, tu hành các công đức bằng 8.400 pháp môn, phát được bồ đề tâm, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tính thành Phật. 
Nho giáo, là nền văn hoá giáo dục con người hướng thiện đến chí thiện, không làm người có tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, tiểu nhân, mà làm người thiện nhân, có đủ đức tính tốt như nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, chính nhân, quân tử, minh nghĩa, chí thiện, làm người có công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng. Chúng ta muốn làm được người chính nhân, quân tử, minh nghĩa, chí thiện, hiểu biết thông minh sáng suốt trí tuệ cao đẳng, thì trước hết cần phải quyết tâm tinh tấn, rốt ráo tu học Nho giáo, hiểu thấu Nho giáo, thực chứng được đạo lý, phương pháp “cách vật trí tri, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Điều này thể hiện qua việc chúng ta khi được sinh ra, trưởng thành, học tập, rèn luyện, có nhận thức, ý thức được mọi mặt toàn diện quan hệ với cuộc sống, văn hoá xã hội, nhân loại trên toàn thế giới, cũng như đối với tất cả những sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này. Chúng ta biết được rất nhiều những đạo lý, nguyên tắc, phương pháp, tư tưởng, đạo đức, phong cách, hiểu biết trí tuệ rất khác nhau, có đúng sai, phải trái, thật giả, nhân ngã thị phi, tốt xấu, chính tà, thiện ác, môi trường hoàn cảnh ô nhiễm thuận nghịch, làm nảy sinh những mâu thuẫn bất cập. Chính vì thế, chúng ta cần phải “cánh vật trí tri”, là sự đấu tranh tư tưởng, giải quyết, hoà giải tất cả những mâu thuẫn trong cuộc sống, và tự giác học tập Nho giáo, hiểu thấu Nho giáo, để loại bỏ những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác và tu tập những điều chính thiện. Để trở thành “chính nhân, quân tử, minh nghĩa, chí thiện”, có đầy đủ đức tính, nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, tâm chân thành, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, từ đó xác định được chính xác mục tiêu để “tu thân”, cũng như việc tu hành các công đức đạt được viên mãn để “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. 
Chúng ta biết xã hội ngày nay tương đối bất ổn, là do sự bất bình đẳng, bất công bằng, bất hợp lý, mâu thuẫn, bất cập mọi mặt đời sống. Tất cả nguyên nhân là do chính ý thức, nhận thức, tổ chức, quản lý, lãnh đạo, truyền đạo, tuyên truyền, giới thiệu chính đạo, chính nghĩa, hướng thiện, chưa đúng phương pháp, nguyên tắc, đạo lý, cảnh giới của các pháp giới chính pháp trong Phật pháp. Cũng như do những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác của chúng ta gây ra, cho nên Nho giáo dậy bảo chúng ta đạo lý “đốn luân tận phận, nhàn tà tồn thành”. Tức là chúng ta cần phải tự giác tu hành, “cách vật trí tri, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, để có được đức năng, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, trong cuộc sống đời thường, cho dù chúng ta làm việc ở bất cứ địa vị, cương vị, công việc gì, thì chúng ta cũng cần phải làm việc đúng pháp luật, đúng quy định và phải làm với trách nhiệm, nghĩa vụ tốt nhất. Điều đó thể hiện chúng ta đã làm được đến “đốn luân tận phận”, còn “nhàn tà tồn thành”, là nói chúng ta sống trong một xã hội luôn luôn thay đổi, biến hoá không ngừng, bị ô nhiễm bởi hoàn cảnh môi trường, cám dỗ, tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, thì cần phải biết tự bảo vệ, hiền hộ bản thân mình, giữ gìn tâm được trong sạch thanh tịnh đến tịch diệt. 
Trong xã hội ngày nay còn nhiều bất cập, con cái không biết nghe lời dạy bảo của cha mẹ, học sinh không biết “tôn sư trọng đạo”, không kính trọng, nghe lời dạy bảo của thầy cô giáo, công nhân thì đình công, bãi công, thoả thuận điều kiện với giám đốc, người quản lý lãnh đạo, đòi hỏi tăng lương thưởng chế độ ưu đãi. Tất cả những việc đó là do chính chúng ta làm, cha mẹ, thầy cô giáo, giám đốc, không đồng thời làm tốt cùng một lúc cả ba cương vị trên, cho nên mới tồn tại nhiều mẫu thuẫn, bất cập như vậy. Nếu chúng ta giải quyết tốt đồng thời cả ba cương vị trên, thì đương nhiên con cái biết nghe lời cha mẹ, kính trọng thầy cô giáo, biết nghe lệnh giám đốc, biết trung thành chia sẻ mọi khó khăn trở ngại với công ty, doanh nghiệp, để đạt được thành công các mục tiêu kế hoạch tốt nhất. 
Chính vì những mâu thuẫn, bất cập, ô nhiễm, bất an, do những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác trong xã hội, con người làm sao mà không mắc phải những sai lầm, sai trái, tội lỗi, xấu tà ác. Vì chúng ta không phải là thánh nhân, hiền nhân thì làm sao mà không mắc lỗi lầm, sai trái. Như vậy, chúng ta biết được những khuyết điểm, tiêu cực, sai trái, tội lỗi xấu tà ác, mà từ đó biết quay đầu là bờ, bỏ xấu tà ác quy về chính nghĩa, biết sửa chữa, thay đổi, tự làm mới bản thân chúng ta, để chuyển phàm thành thánh, thành hiền nhân, đại trương phu, chính nhân quân tử minh nghĩa chí thiện, có đầy đủ đức tính tốt đẹp thành bậc đại “nhân lễ nghĩa trí tín”. Tức là nói rõ ràng, minh bạch việc xấu tà ác, tội lỗi, sai trái, giả tạo, thì chúng ta nhất định không làm, cần gìn giữ tâm thanh tịnh tịch diệt, không cho những điều xấu tà ác, ô nhiễm, tác động được vào chúng ta, mà còn phải bảo vệ, xây dựng, gìn giữ bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Chúng ta ngày nay được sống trong một thế giới, có nền khoa học kỹ thuật phát triển văn minh hiện đại mọi mặt toàn diện, và do sự bùng nổ của các hệ thống truyền thông đến khắp mọi vùng miền, tôn giáo, đảng phái, giai cấp, quốc gia, dân tộc, trên toàn thế giới. Tức là có sự giao lưu tác động mạnh mẽ, sâu sắc, toàn diện mọi mặt của đời sống văn hoá xã hội, an ninh chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật, đặc biệt là sự giao lưu giữa các nền văn hoá, tôn giáo, triết học, khoa học. Từ đó có sự học hỏi, hỗ trợ, bổ sung, kế thừa những giá trị tinh hoa, đoàn kết thống nhất hợp tác phát triển bình đẳng những mặt tích cực cùng có lợi, cũng như biết được những mặt còn yếu kém, khuyến điểm, tiêu cực, lạc hậu, sai trái, tội lỗi xấu tà ác, để mà sửa chữa, thay đổi, tự làm mới nó, sao cho phù hợp với thực tế đời sống sinh hoạt của chúng ta. Với mục đích mang lại chân thật những lợi ích công đức, phước báu, trình độ hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chí thiện, có được hưởng đời sống ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững cho chúng ta. Vì thế giới hoà bình, tập trung dân chủ, đoàn kết thống nhất, hợp tác phát triển toàn diện mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần, một cách bình đẳng cùng có lợi. Chính vì vậy, chúng ta biết được các quy luật nguyên tắc, đạo lý, phương pháp, cảnh giới của các pháp giới chính pháp trong Phật giáo, đó là những nguyên tắc, đạo lý, phương pháp, như tứ diệu đế, mười hai nhân duyên, mười tám giới, Bát chính đạo, tu tam phước, lục hoà, tam học, lục độ, Phổ Hiền hạnh nguyện, 8.400 pháp môn và những quy luật như sinh trụ dị diệt, sinh lão bệnh tử. 
Như vậy, trong cuộc sống của chúng ta, được sinh ra, trưởng thành, già lão, thoái hoá, bệnh tật, ốm đau, hoạ hoạn và cuối cùng là sự chết, trong một khoảng thời gian rất ngắn, vô thường, nhiều nhất thì được khoảng một trăm năm tuổi, tuỳ theo nghiệp nhân đã tạo mà được hưởng phước báu, sung sướng, ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững hay bị đau khổ, phiền não. Tất cả những thứ đó, là do những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác tạo lên, chính vì thế mà chúng ta cần thức tỉnh, nhận thức được việc sinh lão bệnh tử cả đời, là việc quan trọng, cực trọng, việc lớn của cả đời người, mà quyết tâm tinh tấn, thấu triệt Nho giáo, Phật giáo, Tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh. Từ đó buông bỏ những giả tướng, thành bậc chính nhân quân tử minh nghĩa chí thiện, có đủ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, phát được tâm bồ đề, được minh tâm kiến tính thành Phật.           
2. Lão giáo do Lão Tử sáng lập. Tư tưởng chính yếu nằm trong “Đạo Đức Kinh” với tư tưởng đưa đạo học vào đời sống xã hội con người, cũng như giúp cho các nhà quản lý xã hội, an ninh chính trị, nhà cần quyền dùng đạo mà trị nước. Lão Tử nói, người chính nhân “vô kỷ, vô công, vô danh”, cần phải không còn tư tâm, tư dục “thoát tục” sau đó mới “hoàn tục”, để giúp dân, giúp nước. Tư tưởng này, cũng giống như Bổn sư Thích Ca Mô Ni Phật, cần phải tự độ được chính mình, thì mới độ tha, tự giác ngộ được chính mình trước, sau đó mới hành giác tha. Tức là tự mình học tập tu hành các công đức, có được sự giác ngộ chính giác công đức hiểu biết trí tuệ cao đẳng, đại triệt đại ngộ, đến minh tâm kiến tính thành Phật, thì mới có đủ khả năng, có tâm “bi trí dũng” chân thật, để bình đẳng giúp đỡ, thương sót, truyền đạo, giới thiệu chính pháp Phật pháp, Lão giáo bình đẳng cho tất cả mọi người, chúng sinh có được chân thật những lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chí thiện, chí công vô tư và trong cuộc sống hằng ngày được ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững.
Lão Tử đã vì chúng ta giải thích chữ “Đạo”, để chỉ nguyên lý của vũ trụ, có từ trước khi khai thiên lập địa, không sinh, không diệt, không tăng, không giảm, không thể phân hai, đạo mà nói ra được, không còn phải là đạo “thường” nữa, danh mà gọi ra được, không còn phải danh “thường” nữa. Không có một danh từ nào, không có một ý tưởng nào, cũng không có một sự phán đoán về giá trị nào, mà có thể gọi là tuyệt đối cả. Tất cả mọi sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này đều tương đối, nghĩa là bao giờ cũng có phần đối đãi của nó, tốt và xấu, thiện và ác, chính và tà, thị và phi, phải và trái, thật và giả, đúng và sai, dài và ngắn, cao và thấp. Tức là nói hai mặt của vấn đề, thiên hạ đều biết tốt là tốt, thì đã có xấu rồi, đều biết lành là lành thì đã có cái chẳng lành rồi, Lão Tử gọi đó là nhị nguyên. Cặp tương đối đó luôn luôn nằm sẵn trong mọi sự vật, sự việc, hiện tượng trong đời sống vũ trụ nhân sinh này, và thường gây cho chúng ta nhiều tranh chấp, mâu thuẫn. Lão Tử khuyên chúng ta nếu muốn có được đạo, thì đừng có nhìn tất cả các sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, bằng con mắt nhị nguyên, phân chia thị phi, mà cần phải nhìn thấy tất cả đều là một. Con người mà càng chạy theo cái học phân tán, sẽ bị tâm hồn rối loạn, hay phân biệt, chấp trước, vọng tưởng. Lão Tử khuyên đừng sa vào cái tạp niệm nhị nguyên. Tức là gần được với đạo rồi đấy, và như vậy theo Lão Tử gọi là cái học cao nhất lại giống như sự ngu dốt. Đạo là hư vô, nhưng mà cái đức của nó thì là nguồn gốc sinh ra trời đất, vạn vật, chữ “đức” theo Lão Tử là “nguồn sống ngấm ngầm”, Đạo thì sinh mà Đức thì nuôi nấng và đùm bọc.
Lão Tử nói về cái động của đạo, là trời đất vạn vật do đạo mà ra, nhưng rồi đều trở về đạo, tức là nói “đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật”. Trong vạn vật không vật nào mà không cõng âm và bồng dương, nhân chỗ xung nhau mà hoà nhau. Một, là cái thể duy nhất của đạo, Hai là chỉ vào hai khí âm dương, tức là hai nguyên lý mâu thuẫn nhau, nhưng bổ túc nhau đồng có ở trong mỗi vật, và vì thế mới có nói “trong vạn vật không vật nào không cõng âm bồng dương”, giữa sự xô xát xung đột nhau của hai nguyên lý mâu thuẫn ấy, lại có một cái nằm giữa làm cho nó sống chung và dung hoà, điều hòa với nhau, mà không thủ tiên nhau, cái đó là nguyên lý thứ ba, cái thứ ba sinh ra vạn vật. Cái nguyên lý thứ ba dung hoà, Lão Tử gọi là cái dụng của đạo. Lão Tử nói, vạn vật cùng đều sinh ra, ta lại thấy nó trở về gốc, mọi vật trùng trùng đều trở về cội rễ của nó. Trở về cội rễ, tức là trở về gốc tịnh của nó, cũng là trở về với vô vi. Trở về cội rễ gọi là tịnh, gọi là phục mạng, mà phục mạng gọi là “thường”, thường tức là đạo vậy. 
Lão tử nói, huyền đồng là bỏ sự phân chia, hoà ánh sáng, đồng bụi bậm. Theo đạo thì càng ngày càng bớt, bớt rồi lại bớt, đến mức vô vi. Vô vi đây là vô dục vậy. Phải dứt bỏ cả lề lối suy tư nhị nguyên, dứt bỏ cả lòng ham muốn riêng tư, dứt bỏ cả cái học trục vật chạy theo danh lợi bên ngoài, phải dứt bỏ cái lòng đèo bòng tham muốn theo những thứ bên ngoài. Như vậy phải dứt bỏ cái ta nhân tạo, giả dối, để trở về cái ta đồng nhất với đạo, trở về “thanh tĩnh” và “vô vi”. Theo đạo thì phải biết “dừng”, biết “đủ”. Lão tử nói, con người thường hay vì thân, vì kỷ, kết phe với kẻ đắc thời, cầu thân với người đắc thế, để dựa vào đó, mà bóc lột những kẻ bất hạnh. Người theo đạo thì phải hạ mình làm kẻ thấp, sống trong bóng tối, không tự xem mình là sáng, không cho mình là phải, không tự hào và khoe khoang, không hám danh, không được cho “đời đục cả, một mình ta trong”, “đời say cả một mình ta tỉnh”, theo đạo thì phải biết “lấy đức báo oán, oán liền tiêu tan”. 
Đạo đức kinh, là lấy đạo trị nước, giúp đỡ cho tất cả mọi người có được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung ung, tự tại, bình yên bền vững, đưa họ trở về đời sống chân thành, thật thà, khiêm tốn, giản dị, tiết kiệm, thanh tịnh, bình đẳng, hiểu biết giác ngộ chính giác trí tuệ cao đẳng, chí thiện, nhân từ bác ái, từ bi hỷ xả, bao dung độ lượng, chí công vô tư, vô vi. Tất cả vì thiên hạ thái bình, nhân loại trên thế giới được hưởng hoà bình, tập trung dân chủ, đoàn kết, thống nhất, hợp tác, phát triển mọi mặt toàn diện bình đẳng cùng có lợi.
Lão Tử nói, bản thể của đạo, đạo là nguồn gốc của vũ trụ. “Đạo mà có thể nói được, thì không còn phải là đạo thường nữa, danh mà có thể nói ra được, thì không còn phải là danh thường nữa”. Lão Tử nói, vũ trụ không thể nào dùng tư tưởng mà suy nghĩ được, không thể nào dùng lời nói mà luận bàn được và vì thế mà Lão Tử cưỡng đặt cho nó tên là Đạo. “Đạo chẳng có thể nghe được, nghe được không còn phải là nó nữa, đạo chẳng có thể thấy được, thấy được không phải nó nữa, đạo chẳng thể nào nói được, nói được cái hình dung của cái không hình dung được chăng, cho nên chúng ta không nên đặt tên cho Đạo. Ngài nói tiếp, “kẻ hỏi đạo cũng như kẻ đáp lại, đều là những người không hiểu đạo cả”, vì “biết thì không nói, mà nói thì không biết”. Nhưng thực ra thì người hiểu được “Đạo”, thì không thể dùng lời nói để giải thích một cách minh bạch, rõ ràng, tường tận, thấu triệt được mà cần phải dùng pháp phương tiện thiện xảo, để hướng dẫn, truyền đạo, giới thiệu “đạo”, giúp ích bình đẳng cho tất cả mọi người, nhân loại trên toàn thế giới, mọi chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, hiểu được con đường cầu “đạo”, vô thượng chính đẳng chính giác, như Bổn sư Thích Ca Mô Ni Phật đã lập ra ba thừa giáo, ba đại tạng kinh, mười hai giáo và với 8.400 pháp môn, để giúp đỡ bình đẳng cho chúng ta tự giác tu hành các công đức, phát được bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A di đà Phật được công phu thành khối, lý nhất tâm bất loạn, khôi phục được chân như bổn tính, thấy được chân tâm, Phật tính, được minh tâm kiến tính, trí thành tha thiết cầu nguyện được vãng sinh thế giới Tây phương cực lạc thành bậc bất thoái tu hành đạt đến cảnh giới viên mãn thành chư Phật Như Lai.  
3. Kitô giáo (Công giáo, Chính Thống giáo, Anh giáo, Tin Lành) 
Theo Kinh Thánh, Thiên Chúa là Đấng đã sáng tạo ra vũ trụ, muôn loài trong sáu ngày và ngày thứ bẩy Ngài nghỉ ngơi. Ông Adam và bà Eva là tổ phụ của loài người, do không nghe lời Thiên Chúa đã ăn trái của “cây biết điều thiện điều ác” (trái cấm), nên bị Thiên Chúa đuổi khỏi Vườn Địa Đàng. Hai người này truyền tội lỗi (gọi là tội tổ tông, nguyên tội) cho con cháu là loài người. Thấy loài người mang tội, Thiên Chúa lại giáng sinh “cứu rỗi” cho loài người, để loài người được về lại thiên đàng cùng Thiên Chúa. 
Vậy tâm điểm việc “cứu rỗi” của Kitô giáo là Chúa Giêsu, do đó trọng tâm của cuộc sống Kitô hữu là niềm xác tín rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa giáng trần (thuyết ba ngôi), là Đấng Messiah, và là Chúa Kitô. Danh hiệu “Messiah” theo tiếng Hy Lạp, nghĩa là “Đấng được xức dầu”. 
Kitô hữu tin rằng, là Đấng Messiah. Giêsu được Thiên Chúa xức dầu để tể trị và cứu rỗi nhân loại, Giêsu đến để làm ứng nghiệm lời tiên tri về Đấng Messiah trong Cựu ước. Trọng tâm của đức tin Kitô giáo là qua sự chết và phục sinh của Giêsu, con người tội lỗi được phục hoà với Thiên Chúa, nhờ đó mà nhận lãnh sự cứu rỗi và lời hứa được hưởng sự sống đời đời.
Trong khi những tranh luận thần học về bản thể của Chúa Giêsu vẫn đang tiếp diễn, thì phần lớn Kitô hữu tin rằng Giêsu là Thiên Chúa nhập thế, Giêsu “là Thiên Chúa và là con người” trong ý nghĩa trọn vẹn của cả hai bản thể. Vì Giêsu là người nên phải trải qua những đau khổ và bị đánh bại quyền lực sự chết và sống lại từ kẻ chết. Theo Kinh Thánh, Thiên Chúa đã khiến Giêsu sống lại từ kẻ chết, đặt Chúa Giêsu ngồi bên hữu của Chúa Cha và Giêsu sẽ trở lại để làm ứng nghiệm lời tiên tri về Đấng Messiah như sự phục sinh, sự phán xét sau cùng và sự thiết lập Vương quốc của Thiên Chúa.
Kitô giáo được biết đến từ thế kỷ thứ nhất, khi các môn đồ của Giêsu được gọi là Kitô hữu tại thành Antioch (thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay), nơi họ đến để lánh nạn và định cư sau những cuộc bách hại đầu tiên tại xứ Judea. Nền thần học của Kitô giáo sơ khai được thành lập và truyền bá bởi sứ đồ Phaolô và các sứ đồ khác.
Về mặt giáo lý, Kitô hữu xem Kitô giáo là sự kế thừa và hoàn chỉnh của Do Thái giáo. Kitô giáo mang theo mình nhiều điều từ thần học, như thuyết độc thần, niềm tin vào Đấng Messiah (hay Chúa Kitô từ chữ Hy Lạp Christos, nghĩa là “Đáng được xức dầu”) cùng với một vài hình thức thờ phụng như cầu nguyện, xướng đọc Kinh Thánh, chức vị tư tế (dù hầu hết người Kháng Cách tin rằng chức vụ tư tế được ban cho tất cả tín hữn), và ý tưởng cho rằng sự thờ phụng trên đất là “hình bóng” cho sự thờ phụng trên Thiên đàng. 
Những xác tín căn cốt của Kitô giáo tập trung vào sự hoá thân thành người, sự đền tội cho nhân loại, sự chết trên thập tự giá và sự sống lại của Chúa Giêsu để cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết. Ngày càng có nhiều Kitô hữu tin rằng sự tuyển chọn mà Thiên Chúa dành cho dân Do Thái được ứng nghiệm trọn vẹn qua Chúa Giêsu. Người Do Thái nào không chấp nhận Chúa Giêsu không còn là người được chọn vì họ đã khước từ Ngài như Đấng Messiah và Con Thiên Chúa. Quan điểm này đang được làm giản nhẹ hay ngay cả loại trừ tại một số giáo hội nơi người Do Thái được thừa nhận là có một địa vị đặc biệt, vì có giáo ước của Thiên Chúa dành cho dân tộc này.
Trọng tâm của Kitô giáo đặt vào yếu tố Thiên Chúa sai Con Ngài (Ngài chính là Thiên Chúa) đến thế gian để cứu nhân loại, tạo ra sự khác biệt lớn giữa Kitô giáo và các tôn giáo khác, vì các tôn giáo ấy thường nhấn mạnh đến vai trò của con người tự nỗ lực cho sự cứu độ của bản thân mình.
Nền thần học được xác lập vững chắc từ ban đầu và được chấp nhận rộng rãi ba nhánh chính của Kitô giáo (Công giáo, Chính Thống giáo và Kháng Cách) khẳng định những xác tín căn bản của Kitô giáo bao gồm:
Thiên Chúa có ba Ngôi, thực thể vĩnh cửu duy nhất hiện hữu trong ba thân vị: Chúa Cha, Chúa Con (Chúa Giêsu Kitô) và Chúa Thánh Linh.
Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là người, cả hai bản thể đều trọn vẹn trong Ngài.
Mary, mẹ của Chúa Giêsu, người mang thai và sinh Con Thiên Chúa, Đấng vô hạn và vĩnh cửu đã được hình thành trong thân thể của bà bởi quyền năng siêu nhiên của Chúa Thánh Linh. Ngài nhận lãnh từ Mary trí tuệ và ý chí con người và mọi điều khác như một đứa trẻ bình thường nhận lãnh từ mẹ mình.
Chúa Giêsu là Đấng Messiah người Do Thái vẫn hằng mong đợi, là Đấng kế thừa Ngài Vua David. Ngài ngự bên hữu Chúa Cha để trị vì với tất cả quyền bính vĩnh cửu. Ngài là niềm hy vọng, là Đấng biện hộ và là Đấng phán xét toàn thể nhân loại. Hội thánh có thẩm quyền và bổn phận giảng Phúc Âm trên khắp thế giới.
Chúa Giêsu không bao giờ phạm tội. Qua cái chết và sự sống lại của Ngài, tín hữu được tha thứ tội lỗi và được hoà giải với Thiên Chúa. Tín hữu chịu lễ “Bắp têm” (rửa tội) như là biểu tượng cho sự đồng chết và đồng sống lại với Chúa Kitô để nhận lãnh sự sống mới. Qua đức tin, họ nhận lãnh lời hứa sẽ sống lại từ kẻ chết để được sống đời đời. Trong danh của Chúa Kitô, Chúa Thánh Linh ngự vào lòng tín hữu, ban cho họ hi vọng, dẫn họ vào hiểu biết chân xác về Thiên Chúa và ý chỉ của Ngài cũng như giúp họ được đời sống thánh khiết.
Chúa Giêsu sẽ trở lại để phán xét toàn thể nhân loại, để tiếp rước những người tin Ngài vào cuộc sống vĩng cửu kề cận Thiên Chúa.
Nhiều Kitô hữu ở phương Tây xem Kinh Thánh là “lời của Thiên Chúa”. Những người khác, đặc biệt là ở phương Đông, tin rằng chỉ có Chúa Giêsu là “Ngôi Lời của Thiên Chúa”, xem Kinh Thánh là quyển sách có thẩm quyền, được soi dẫn bởi Chúa Thánh Linh nhưng được viết bởi con người. Vì dị biệt này mà nhiều người Kitô hữu bất đồng với nhau về mức độ chân xác của Kinh Thánh cũng như về phương cách giải thích.
Đức tin Kitô được đúc kết trong các tín điều, quan trọng nhất là Tín điều các Sứ đồ và Tín điều Nicaea. Các bản tín điều này được hình thành trong vòng vài thế kỷ sau công nguyên nhằm phản bác các học thuyết dị giáo. Dù vẫn còn tranh luận về vài điểm khác nhau của các bản tín điều, chúng được dùng rộng rãi để bày tỏ các xác tín căn bản của nhiều Kitô hữu.
Tại Châu Âu, chịu ảnh hưởng từ cuộc cải cánh Kháng Cánh vào thế kỷ mười sáu nhiều giáo hồi đã từ chối thần phục Vatican, vì họ cho rằng có sự lạm dụng trong cơ cấu quyền lực được tập trung vào Ngài Giáo Hoàng, cũng như bên trong cấu trúc quyền lực này đã nảy sinh nhiều sai lạc về thần học và sống đạo. Các vấn đề mấu chốt trong cuộc tranh luận đã được tóm tắt trong năm mệnh đề nổi tiếng hay còn gọi là Năm Tín lý Duy nhất:
Duy Thánh Kinh, tức là thẩm quyền của giáo hội chỉ dựa trên Kinh Thánh được giải thích cách đúng đắn và chuẩn xác chứ không được tách rời khỏi Kinh Thánh.
Duy đức tin, tức là con người được “cứu rỗi” chỉ bởi tin Chúa Kitô chứ không phải bởi công đức hay là nhờ giáo hội và các thánh lễ.
Duy ân điển, tức là sự cứu rỗi được ban cho từ Thiên Chúa, bởi ân sủng của Ngài, con người không thể làm gì để được cứu.
Duy Chúa Kitô, tức là Chúa Giêsu là đấng trung bảo duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người chứ không phải là giáo hội hay các chức sắc.
Vinh hiển chỉ dành cho Thiên Chúa, mọi vinh hiển vì sự cứu rỗi nhân loại chỉ dành cho một Thiên Chúa chứ không phải giáo hội hay các chức sắc.
Từ cuộc cải cách khởi phát một cuộc tranh chấp dữ dội nhằm thu phục người Âu châu. Các cuộc tranh luận giữa Công giáo và người Kháng Cách dẫn đến những cơn bách hại cũng như cuộc chiến, kể cả các cuộc nội chiến.
Mười điều răn dạy của Thiên Chúa:
1. Ta là Thiên Chúa của người và không có Thiên Chúa nào khác ngoài Ta.
2. Không được tạc tượng vẽ hình để thờ. 
3. Không được dùng danh Chúa cách bất xứng.
4. Phải giữ ngày Sabát.
5. Phải tôn kính cha mẹ.
6. Không được hãm hại người khác. 
7. Không được dâm dục. 
8. Không được trộm cắp.
9. Không được làm chứng dối.
10. Không được chiếm đoạt vợ của người khác và không được ham muốn chiếm đoạt của cải của người khác.
Theo giáo lý trong Phật giáo, Thiên Chúa là vua của tam giới, trong đó cõi Trời được chia làm ba cảnh giới là cõi Trời dục giới, sắc giới và phi sắc giới. Thiên Chúa có quyền năng phép mầu phân thân, thành pháp thân, hoá thân, ứng thân và được thể hiện qua ba thân, là đức Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh. Trong một thân có cả ba thân, điều này thể hiện rất rõ đó là pháp thân, bản thể của Thiên Chúa là bất sinh bất diệt, ứng thân là Chúa Giêsu làm con người, hoá thân là Chúa Thánh Linh có khẳ năng, diệu dụng, phép mầu thần thông để cứu rỗi cho mọi người, nhân loại được giải thoát khỏi mọi sự khổ đau, phiền não và được về với Thiên Chúa hưởng phước báu dài lâu.
Đức Chúa Giêsu, là đức Chúa Con của đức Chúa Cha, được ứng thân làm người, để cứu rỗi mọi khổ đau, phiền não, tội lỗi cho loài người. Theo Kinh Thánh thì Chúa Trời có bẩy ngày tạo dựng lên vũ trụ loài người, muôn loài, động vật, thực vật, khoáng vật. Tức là tất cả mọi sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, đã được đức Chúa Trời tạo ra tất cả. Nhưng thật ra những điều trong Kinh Thánh nói, đều là pháp phương tiện thiện xảo, nói một cách đơn giản, dễ hiểu, phù hợp với căn cơ, trình độ, hiểu biết của con người. Để dẫn dụ, truyền đạo, giới thiệu Kinh Thánh cho chúng ta, biết được chân tướng sự thật của tất cả mọi sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, đều là những giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng, không thật có. Nó tuân theo các quy luật tự nhiên, khách quan, vật chất là thành trụ hoại không, đối với con người là sinh lão bệnh tử và con người là do tứ đại hợp thành, đó là đất, nước, gió, lửa, còn linh hồn, tinh thần, là do vô minh nghiệp thức, là Chúa Thánh Linh. 
 Đức Chúa Giêsu đã chịu hình phạt tử hình, bị đóng đinh trên cây thánh giá cho đến chết, để chuộc tội lỗi tổ tông cho chúng ta, nhân loại trên toàn thế giới, tội lỗi tổ tông của loài người, là do ông Adam và bà Eve do không nghe lời Thiên Chúa mà ăn phải “trái cấm”, đã bị Thiên Chúa chừng phạt đoạ lạc xuống trần gian làm kiếp con người và từ đó loài người được xuất hiện. Sự việc đức Chúa Giêsu chịu chết thay cho loài người, để chuộc tội lỗi do tổ tông loài người mang lại, là một sự việc vô cùng cao thượng, thiêng liêng, tốt đẹp, công đức, trí tuệ, chí thiện cao đẳng nhất. Đây là sự việc chịu khổ đau, tội lỗi thay cho chúng ta, nhân loại trên toàn thế giới, cho nên chúng ta tôn kính đức Chúa Giêsu, thể hiện bằng sự biết ơn đền ơn đức Chúa Giêsu. Chúng ta thể hiện thông qua bằng lời nói, suy nghĩ, việc làm của chúng ta, tin vào sự cứu rỗi của Thiên Chúa, làm theo những lời Thiên Chúa dậy bảo và làm được tất cả những việc hiền lành, tốt đẹp, chính thiện, giúp đỡ, thương sót, cứu khổ cứu nạn, bình đẳng cho mọi người, nhân loại trên thế giới, có được chân thật những lợi ích công đức, phước báu, đạo đức, trình độ hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chí thiện, chí công vô tư. Giúp đỡ họ có được đời sống ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. 
Chúa Giêsu cũng sử dụng pháp phương tiện thiện xảo, để hướng dẫn, dẫn đạo, truyền đạo, giới thiệu Kinh Thánh, về việc giải thích tội lỗi của con người, đó là tội lỗi tổ tông, nhưng thật ra tội lỗi tổ tông chính là những khuyết điểm, nhược điểm, tiêu cực của con người. Phật giáo gọi đó là những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, như là sự tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri tà kiến, tự tư tự lợi, ích kỷ keo kiệt, ghen ghét đố kỵ, tự cao tự đại, sự phân biệt, chấp trước, vọng tưởng. Tất cả những thứ đó đều là do vô minh, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác từ vô thỉ kiếp đến nay mang lại, làm cho chúng ta, nhân loại trên toàn thế giới, cũng như tất cả chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, bị đau khổ, phiền não, sinh tử luân hồi trong sáu cõi ba đường ác, thật đáng thương xót vô cùng. 
Chúng ta có mặt trên cõi đời này, được làm con người để trả nghiệp nhân đời trước, do quy luật nhân quả (mười hai nhân duyên) tạo thành, do kiếp trước chúng ta đã tu được Ngũ giới, Thập thiện đạt đến trung phẩm, tức là khi chúng ta tạo nhân duyên chính thiện thì được thiện quả, tạo nhân duyên xấu tà ác thì bị ác báo, không ai có thể ban phước, giáng hoạ và cũng không ai chịu thay thế nghiệp nhân quả cho ai được, tự mình làm tự mình chịu. Chư Phật Như Lai, Thiên Chúa truyền đạo, giới thiệu những phương pháp, đạo lý hướng thiện cho chúng ta, còn việc thiện thì nhất định chúng ta phải tự mình đi làm mới có được lợi ích, bất cứ tổ chức hay cá nhân nào, chư Phật Như Lai, Thiên Chúa cũng không thể ban phước hay giáng hoạ cho ai được, tức là không thể làm thay đổi được quy luật nhân quả đó.
Như vậy, chúng ta hiểu thấu được điều đó, mà quyết tâm tinh tấn, rốt ráo học tập, làm theo những điều mà Chúa Giêsu dậy bảo, cũng như học tập Phật pháp, để từ đó có đủ đức tin, tu hành các công đức, làm các việc thiện, điều lành, theo Mười điều răn dậy của đức Thiên Chúa và Thập thiện nghiệp đạo trong Phật giáo đạt đến thượng phẩm, thì đương nhiên chúng ta cũng như nhân loại trên toàn thế giới, sẽ được đức Thiên Chúa đón về thế giới của Ngài. Đó là Thiên Đàng, cõi Trời, hưởng thụ rất nhiều niềm vui, phước báu, thọ mạng dài lâu. 
Đức Chúa Giêsu sau khi Ngài chịu chết thay, chịu khổ đau thay, để chuộc tội lỗi tổ tông cho loài người, cũng như cho chúng ta và toàn thể nhân loại trên toàn thế giới. Chính vì đức hy sinh thân mạng cao cả thiêng liêng, cao thượng đó, cho nên chúng ta, cũng như toàn thể nhân loại trên toàn thế giới, cần sống biết ơn đền ơn đức Chúa Giêsu. Điều đó thể hiện bằng sự sửa chữa, thay đổi, tự làm mới chính bản thân mình, bằng những tư tưởng đạo đức phong cách hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chí thiện, chí công vô tư, chấp hành đúng pháp luật của Nhà nước, giới luật trong Phật giáo, cũng như những lời nói, suy nghĩ, việc làm chính thiện tốt đẹp, giúp đỡ bình đẳng cho mọi người có được cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. 
Tin Lành, thì tin tưởng tuyệt đối vào sự “cứu rỗi”, chuộc tội lỗi tổ tông loài người của đức Chúa Giêsu, mà không cần đến bản thân chúng ta phải làm gì, để được đức Chúa Giêsu cứu rỗi. Nhưng trên thực tế chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào đức Chúa Giêsu, thì những gì đức Chúa Giêsu răn dậy, chúng ta phải học tập và làm theo đến được thành công hiệu quả đạt được 100% tốt nhất, mười điều răn dậy của đức Thiên Chúa. Ngài truyền đạo, dạy bảo chúng ta làm những điều tốt lành, chính nghĩa thiện nhân, thì chúng ta trong cuộc sống cần phải quyết tâm làm bằng được những điều chính thiện đó. Điều đó thể hiện bằng việc chúng ta biết thương sót, giúp đỡ mọi người có được chân thật những lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng và có được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. Chúng ta làm được việc đó, thì mới được xem là chân thật tin tưởng một cách có cơ sở bền vững, chính xác vào đức Chúa Giêsu cứu rỗi, tiếp dẫn bình đẳng cho chúng ta, nhân loại trên toàn thế giới, về Thiên Đàng, cõi Trời với Thiên Chúa, được hưởng thụ nhiều phước báu, vui sướng dài lâu. 
Mười điều răn của Thiên Chúa cũng giống và tương đồng với năm giới, mười thiện nghiệp trong giới luật của Phật giáo, mục đích là giáo dục, thương sót, giúp đỡ, truyền đạo, giới thiệu những giáo lý chính đạo. Đó là lời nói, suy nghĩ, việc làm thiện, điều tốt đẹp, đúng đắn, chính nghĩa, đúng phương pháp, đạo lý, nguyên tắc, đúng pháp luật của Nhà nước, giới luật trong Phật giáo. Vì mục đích mang lại chân thật lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chí thiện, chí công vô tư, sự ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững cho cuộc sống của chúng ta.
Thiên Chúa nói đến ba cõi, là cõi trời, cõi người và hoả ngục, còn Phật giáo chia làm sáu cõi luân hồi, đó là cõi trời, người, a tu la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục. Đây là sáu cõi ba đường ác luân hồi, dù cho ở bất cứ cõi nào, thì cũng bị ràng buộc bởi những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, cũng như là có sự khổ đau, phiền não, sinh tử luân hồi, như lửa lớn thiêu đốt thân người vậy, không bền vững. Do đó, chúng ta cần phải quyết tâm tự giác hội nhập, kế thừa có chọn lọc những tinh hoa văn hoá nhân loại, phù hợp với sự phát triển văn minh của các tôn giáo, đảng phái, quốc gia, dân tộc, nhân loại trên toàn thế giới, với tinh thần hoà bình, tập trung dân chủ, đoàn kết thống nhất, hợp tác phát triển bình đẳng cùng có lợi. Để từ đó tìm được cho mình con đường chính đạo, sớm được giải thoát khỏi mọi khổ đau, phiền não, sinh tử luân hồi, tu hành các công đức, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật.  
Chúng ta là con cái ngoan của đức Chúa Giêsu, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh, nhưng chúng ta cũng là học trò giỏi của chư Phật Như Lai. Chúng ta không nên bài bác, nói xấu, hãm hại, oán trách thù hận, làm ảnh hưởng xấu tà ác đến nhau, mà phải thương sót, giúp đỡ nhau bình đẳng cùng có lợi. 
4. Hồi giáo ra đời vào thế kỷ thứ VII tại bán đảo ả rập, do vị thiên sứ cuối cùng Muhammad nhận mặc khải của Thượng đế. Truyền lại cho con người qua thiên thần Jibrael. Hồi giáo tôn thờ Allah, đấng tối cao, đấng duy nhất. Hồi giáo hay còn gọi là Islam có nghĩa là vâng mệnh, quy phục Thượng đế. Tuy cùng một hệ thống nhất thần của các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham, nhưng giáo lý Hồi giáo có nhiều khác biệt với Cơ Đốc giáo và Do Thái giáo, điều đó thể hiện trong Kinh Qur’an với 114 chương, 6236 tiết, đây là cuốn sách linh thiêng, vì đó chính là lời phán của Allah, đấng toàn năng, toàn trí. Kinh Koran được Allah mặc khải xuống để điều chỉnh, bổ sung, sửa chữa, thay đổi, tự làm mới lại những gì đã sai trái, thiếu sót ở hai kinh sách Cựu ước và Tân ước, làm cho nó tốt đẹp đúng đắn, chuẩn xác, có lợi ích công đức, phước báu, trí tuệ, chí thiện, chí công vô tư, bình đẳng công bằng cho mọi người, toàn thể nhân loại trên thế giới. 
Nhưng trên thực tế đời sống chúng ta cần phải hiểu điều này một cách rộng ra, thì tất cả các tôn giáo trên toàn thế giới, đều là pháp phương tiện thiện xảo, để hướng dẫn, chỉ đạo, giúp ích cho con người, có được chân thật lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ, chí thiện, chí công vô tư. Cho nên tất cả các tôn giáo ra đời nhằm mục đích hướng thiện đến chí thiện, cho toàn thể nhân loại trên thế giới, trong quá trình phát triển nhận thức cần có sự học hỏi, kế thừa, bổ sung, sửa chữa, thay đổi, tự làm mới những giá trị tinh hoa của tất cả các nền văn hoá giáo dục tôn giáo. Để hoàn thiện hơn, phù hợp hơn và mang nhiều lợi ích cho con người, nhân loại trên toàn thế giới, thì điều đó là đúng với quy luật phát triển tiến hoá của loài người. Theo Kinh Qur’an: “Allah là đấng tạo thiên lập địa! Làm thế nào Ngài có con khi Ngài không có người bạn đường? Chính Ngài là đấng đã sánh tạo và thông hiểu tất cả mọi vật”, điều này không sai nhưng thật ra Allah là đấng toàn năng, đấng toàn trí, đấng tối cao, thì Ngài có đủ sự hiểu biết thông đạt, thần thông, phép mầu, để phân thân thành pháp thân, ứng thân và hoá thân, để đến nhân gian cứu rỗi, rửa tội lỗi cho toàn thể nhân loại trên thế giới. 
Kinh Qur’an là sự hướng dẫn để mọi người biết phân biệt những sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, biết được đâu là phải trái, đúng sai, tốt xấu, chính thiện tà ác, nhân ngã thị phi, để từ đó biết lánh dữ làm lành, bỏ tà quy chính, tránh xa những tập tính thói quen xấu tà ác, tự thức tỉnh, phản tỉnh, nhận biết những tội lỗi sai trái xấu tà ác, mà biết sửa chữa, thay đổi, tự làm mới, để mỗi người đều trở lên tốt đẹp, thanh tịnh, tiến hoá cao quý, có được tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng công bằng, chí thiện, chí công vô tư, nhân từ bác ái, từ bi hỷ xả, bao dung độ lượng, bồ đề tâm bền vững, xứng đáng là con cái ngoan, học trò giỏi của Allah đấng toàn năng, toàn trí. 
Trong Kinh Qur’an có mười điều răn:
1. Chỉ tôn thờ một Thiên Chúa.
2. Vinh danh và kính trọng cha mẹ. 
3. Tôn trọng quyền của người khác.
4. Hãy bố thí rộng rãi cho người nghèo.
5. Cấm giết người ngoại trừ trường hợp đặc biệt, khi có kẻ lùng giết người đạo mình, nhằm cưỡng bách bỏ đạo, nhưng nếu chiến thắng, phải noi gương thiên sứ Muhammad tha thứ và đối xử nhân đạo với phần đông kẻ bại trận. Giết những tên sát nhân để trừ hại cho dân lành. 
6. Cấm ngoại tình.
7. Hãy bảo vệ và chu cấp trẻ mồ côi.
8. Hãy cư xử công bằng với mọi người.
9. Hãy trong sạch trong tình cảm và tinh thần.
10. Hãy khiêm tốn. 
Mười điều răn trên cũng tương đồng với giới điều thứ nhất, tam phước trong giáo học của Phật giáo, đó là hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, thầy cô giáo, từ tâm bất sát, tu mười thiện nghiệp, và hạnh bố thí cúng dường bình đẳng công bằng cho mọi người, không điều kiện mà giúp đỡ họ.
Ngoài ra Hồi giáo còn có một số luật lệ như một lần trong đời họ phải hồi hương về Thánh địa Mecca, nhưng với điều kiện họ không vay mượn hay xin phí tổn. Trước khi đi họ phải lo cho gia đình vợ con đầy đủ, những nhu cầu cần thiết cho cuộc sống trong thời gian họ vắng mặt hành hương. Nghiêm cấm ăn máu thịt con vật đã chết, trước khi được cắt tiết theo nghi thức, không được ăn thịt lợn, vì lợn là con vật bẩn thỉu.
Nghiêm cấm uống rượu và các thức uống lên men. Nghiêm cấm cờ bạc.
Nghiêm cấm gian dâm và trai gái quan hệ xác thịt trước khi cưới hỏi.
Nghiêm cấm ăn những con vật ăn thịt sống, hay ăn tạp, như chó, mèo, chuột.
Người Hồi giáo chỉ được ăn thịt halal, tức là thịt đã được giết mổ theo nghi thức của đạo Hồi. Tuy nhiên trong trường hợp đặc biệt tuyệt đối không có gì ăn, thì họ được ăn mọi thứ để duy trì sự sống. Hàng năm thực hiện tháng ăn chay Ramadam để tưởng nhớ và biết thương sót người nghèo, tháng này tính theo lịch mặt trăng. Trong tháng này khi còn ánh sáng mặt trời, họ không được ăn uống, đến đêm thì mới ăn. Cũng trong tháng này con người cũng phải tha thứ cho tất cả mọi người, một cách bình đẳng, đạo lý được thể hiện là hận thù oán trách nên hoà giải không nên kết thêm, và sám hối tội lỗi xấu tà ác, sai trái do mình đã gây ra, để đạt được sự trong sạch trong tình cảm và tinh thần, hiền hoà, khiêm tốn bình yên, vợ chồng không được gần nhau vào ban ngày. Trẻ em và phụ nữ có mang thai, không phải thực hiện tháng Ramadam. 
Hồi giáo nghiêm cấm kỳ thị chủng tộc và tôn giáo, tín đồ Hồi giáo không được chỉ trích, cũng như không được phán xét người khác. Đó là việc của Allah, đấng toàn năng. Tức là, Hồi giáo cũng thể hiện được tư tưởng bình đẳng công bằng đối với tất cả mọi người, tôn giáo, đảng phái, gia cấp, quốc gia, dân tộc, toàn thể nhân loại trên thế giới, đều được đối sử một cách hoà bình, tập trung dân chủ, đoàn kết thống nhất, hợp tác phát triển cùng có lợi ích công đức, phước báu, trình độ hiểu biết trí tuệ, chí thiện, chí công vô tư, tất cả mọi người đều có được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững.
 5. Cao Đài, có tính dung hợp, được chính thức thành lập ở Việt Nam, vào năm 1926. Đạo Cao Đài là tên ngắn gọn, tên đầy đủ là Đại đạo tam kỳ phổ độ. Danh từ “Cao Đài” theo nghĩa đen chỉ “một nơi cao”. Theo nghĩa bóng, được hiểu là nơi cao nhất, ở đó Thượng đế ngự trị, cũng là tên viết tắt dùng cho Thượng đế, người sáng lập ra toàn vũ trụ, có danh xưng đầy đủ là “Cao đài tiên ông đại bồ tát ma ha tát”. Tín đồ Cao Đài cho rằng, Thượng đế là nhà sáng lập ra tôn giáo của họ. Họ tin rằng tất cả giáo lý, hệ thống biểu tượng và tổ chức đều được “đức Cao Đài” trực tiếp chỉ định. Ngay cả việc xây dựng Toà thánh Tây Ninh cũng được họ cho là có sự dẫn dắt của “Đấng thiêng liêng”. Những đệ tử đầu tiên của đạo Cao Đài, như Ngô Văn Chiêu, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang, đã xác nhận rằng họ đã nhận được sự “thông công”, liên lạc trực tiếp từ Thượng đế, người đã ban cho họ những chỉ dẫn cụ thể thành lập một tôn giáo mới, khởi đầu cho kỳ phổ độ thứ ba. 
Cao Đài là một tôn giáo mới, có tính chất dung hợp các tôn giáo lớn, mà chủ yếu là Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo. Các tín đồ thi hành những giáo điều của đạo như không sát sinh, sống lương thiện, hoà đồng, lánh dữ làm lành, cầu nguyện, thờ cúng tổ tiên và thực hành tình yêu thương vạn loài chúng sinh, qua việc ăn trường chay. Với mục tiêu tối thiểu khi hết thời gian thọ mạng, đến khi chết được về với Thượng Đế, và mục đích tối thượng là thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi trong sáu cõi, ba đường ác. Các ước lượng về số tín đồ Cao Đài có khác nhau, nhưng đa số các nguồn tin cho rằng con số đó là hai đến ba triệu người, trong đó có khoảng ba mươi nghìn tín đồ sống ở Hoa Kỳ, Châu Âu, Châu úc.
Các giáo lý cơ bản của đạo Cao Đài là tam kỳ phổ độ, tức là các tín đồ tin rằng Thượng đế là đấng sáng lập ra vũ trụ và hình thành nên các tôn giáo. Theo thời gian từng địa phương, Thượng đế đã hình thành các tôn giáo khác nhau, để phù hợp với thời điểm và được phân làm ba kỳ phổ độ với ba nhánh khác nhau. Nhất kỳ phổ độ là thời kỳ hình thành các tôn giáo trên thế giới, gồm có Phật giáo ấn độ, Tiên giáo, Nho giáo ở Trung hoa, Do Thái giáo ở Trung đông. Thời kỳ này Thượng đế mặc khải cho đệ tử đầu tiên thay mặt mình để truyền đạo. Nhị kỳ phổ độ, là thời kỳ chấn hưng các nền tôn giáo trên thế giới. Các tín đồ Cao Đài cho rằng sau một thời gian phổ độ, các giáo lý được Thượng đế truyền dạy theo thời gian đã bị các tín đồ diễn giải sai lạc, không còn mang đúng giáo lý nguyên thủy của Ngài. Vì vậy một lần nữa, Thượng đế đã truyền dạy cho các đệ tử của mình ở các nơi khác nhau trên thế giới, thực hiện nhiệm vụ chấn hưng nền đạo. Từ đó hình thành Phật giáo đại thừa, Đạo giáo, Khổng giáo, Thiên Chúa giáo. Thời kỳ này các tôn giáo được chấn hưng và phát triển mạnh mẽ, vượt ra khỏi ranh giới vùng miền quốc gia, dần truyền bá ra thế giới. Tam kỳ phổ độ là thời kỳ các tôn giáo đều hợp thành một tôn giáo, duy nhất, dưới quyền cai quản Thượng đế, được Thượng đế điều hành truyền giảng thông qua hình thức cơ bút. Đây cũng là lý do một số tín đồ gọi tôn giáo của họ là “Đạo thầy”, với hàm ý họ là những người thọ giáo trực tiếp từ Thượng đế.
Quan điểm của các tín đồ Cao đài, thì Thiên nhãn biểu trưng cho con mắt của Thượng đế, nhìn thấy rõ tất cả những hành vi thiện ác, của khắp nhân gian, để khen thưởng hay xử phạt một cách công bình. Trước Thiên nhãn, không ai có thể che giấu hay chối cãi được. Biểu tượng Thiên nhãn còn có ý thức đại đồng, vì bất cứ quốc gia, chủng tộc, tôn giáo nào, thì biểu tượng Thiên nhãn đều giống nhau và không phản ảnh đặc tính phân biệt nào.
Cao Đài cho rằng mọi tôn giáo trên thế gian này, đều có cùng một nguyên lý, và đều do đức Thượng Đế lập ra ở nhiều nơi khác nhau, vào các thời kỳ khác nhau. Vì sự khác biệt về hình thức giữa các tôn giáo, mà nhân loại chia rẽ, hiềm khích nhau, nên đức Chí tôn mới lập ra đạo Cao Đài, để qui nguyên hợp nhất các tôn giáo. Tức là nguyên lý của đạo Cao Đài là “vạn giáo nhất lý”. Đức Chí Tôn nói, “Thầy là các con, các con là Thầy”, nghĩa là từ vật chất, thảo mộc, thú cầm, nhân loại, mọi thứ sự sống đều có thọ một điểm linh quang của đức Chí Tôn, vì thế mới có câu: “Thiên địa vạn vật đồng nhất thể”.
Cao Đài qui nhất ngũ chi đại đạo, đó là Nhân đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo tương ứng với các tôn giáo là Nho giáo, Thiên Chúa giáo, Lão giáo, Phật giáo. Đạo Cao Đài hướng con người đến việc thực hiện bổn phận đối với mình, với gia đinh, với xã hội, nhân loại và từ bỏ say mê vật chất, như danh vọng giàu sang, để tu tâm luyện tâm tính, tìm thấy sự bình thản cho linh hồn. Đạo thờ Thượng đế, các đấng linh thiêng, tổ tiên. Còn về mặt tâm linh, đạo Cao Đài xác nhận sự hiện hữu của linh hồn và tâm hồn. Linh hồn còn được gọi là lương tâm, là một phần chân linh của Thượng đế, luôn luôn bất diệt, chí thánh, chí thiện có nhiệm vụ dạy dỗ dìu dắt tâm hồn và xác thân hành động theo lẽ phải. Tâm hồn có nhiệm vụ nghe theo sự hướng dẫn của chân linh, điều khiển xác thân sống theo thiên lý, tiến hoá theo luật luân hồi nhân quả. Về phương diện tu luyện là tham thiền nhập định, tu luyện đạo cơ giải thoát sinh tử luân hồi sáu cõi, ba đường ác.
 
 
 
TạM KếT
 
Phật giáo là nền giáo dục hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chí thiện, chí công vô tư, từ bi bác ái, bao dung độ lượng, bình đẳng giúp ích đối với mọi người, nhân loại, chúng sinh tìm được chân lý cao thượng, đó là sự giải thoát khỏi mọi khổ đau, phiền não, tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, sự phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, sinh lão bệnh tử luân hồi theo quy luật nhân quả. Tức là, chúng ta gieo nhân chính thiện lành thì được quả chính thiện lành, còn chúng ta gieo nhân xấu tà ác tội lỗi thì phải nhận quả báo xấu tà ác, do chính chúng ta đã tạo ra trong quá khứ và ngay hiện tại, không một ai có thể làm thay đổi được đạo lý nhân quả đó, kể cả là chư Phật Như Lai, hay Thượng đế, cũng không thể ban vui hay giáng hoạ cho ai cả. Chúng ta hiểu thấu được Phật pháp, biết được quy luật nhân quả, phương pháp tu hành các công đức, buông bỏ những giả tướng, phát được bồ đề tâm bền vững, vững bước trên con đường cầu đạo vô thượng chính đẳng chính giác, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tính thành Phật. 
Pháp xuất thế gian, bao gồm phạm vi từ quá khứ vô cùng và đến tương lai vô tận đều là Phật pháp. Chính vì vậy không có sự phân biệt, chấp trước, vọng tưởng thời gian và không gian, tức là đối với Phật giáo thời gian và không gian cũng là giả tạm. Phật nói, vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng, tất cả các sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, đều là giả tướng, giả tạm, huyễn cảnh, ảo tưởng và đền tuân theo quy luật như thành trụ hoại không, đối với con người là sinh lão bệnh tử, pháp tứ diệu đế, mười hai nhân duyên, mười tám giới. Phật pháp là vạn pháp nhất như, hay vạn pháp đều không, đều là pháp phương tiện thiện xảo chỉ có “dụng” mà không có “thể”, nghĩa là nói thời gian một đời người cũng là giả tạm vô thường, vì trong chúng ta đều có Phật tính bất sinh bất diệt, đều là Phật trong tương lai, Phật nói, “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. 
“Nhà Phật lấy từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa”, tức là nói Phật giáo lấy từ bi bác ái, bao dung độ lượng làm cội gốc, làm nền tảng, để tu hành các công đức, tức là nói cho dù chúng ta đang ở bất cứ tôn giáo nào, đảng phái nào, dân tộc quốc gia nào cũng được bình đẳng học Phật tu pháp. Ví như bạn là con cái ngoan của Thiên Chúa giáo, Thượng đế, cũng đồng thời là học trò giỏi của chư Phật Như Lai. Chư Phật Như Lai lấy các pháp làm pháp phương tiện thiện xảo, như Bát chính đạo, ba đại tạng kinh và mười hai giáo để giúp đỡ tất cả nhân loại, chúng sinh, mà không có phân biệt tôn giáo, đảng phái, quốc gia, dân tộc, pháp giới chúng sinh, mà tất cả được bình đẳng học Phật tu pháp đạt đến viên mãn được giải thoát sinh tử luân hồi, chứng nhập Niết bàn. Nghĩa là, tất cả các tôn giáo, đảng phái, quốc gia dân tộc, chủng tộc, nhân loại trên toàn thế giới, pháp giới chúng sinh, đều được bình đẳng học Phật, tu hành các công đức, lánh dữ làm lành, bỏ ác tu thiện, bố thí, từ thiện và phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
Chúng ta tinh tấn, rốt ráo tu học Phật pháp, tu hành các công đức, hiểu thấu Phật pháp, buông bỏ được những giả tướng, thì ngay trong hiện tại đời này được hưởng chân thật cuộc sống trung đạo, công đức, hiểu biết trí tuệ, chí thiện, chí công vô tư, tất cả mọi người đều có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững, gia đình hạnh phúc, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, quốc gia giàu mạnh, thế giới hoà bình, tập trung dân chủ, đoàn kết thống nhất, hợp tác phát triển bình đẳng cùng có lợi.              
Chúng ta tiếp thu kế thừa, học tập, thâm nhập những giá trị tinh hoa văn minh tiến bộ hiện đại, có sự chon lọc, chuyển hoá, vận dụng, sáng tạo, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, giữa tất cả những nền văn hoá tôn giáo, triết học, khoa học kỹ thuật, nghiên cứu lịch sử tiến hoá toàn diện mọi mặt đời sống của con người, của các nền văn hoá, tôn giáo, đảng phái, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại trên toàn thế giới. Để làm tăng thêm giá trị trình độ hiểu biết trí tuệ, chí thiện, chí công vô tư, bình đẳng cho chúng ta, một cách tự nguyện, tự nhiên theo đúng quy luật, đạo lý, phương pháp, nguyên tắc tiến hoá phát triển của nhân loại. Cũng như để phù hợp, thích nghi mọi mặt toàn diện với môi trường hoàn cảnh sống của con người, ngày càng được hoàn thiện thoả mãn tốt đẹp hơn, cả về vật chất và tinh thần, tư tưởng, đạo đức, phong cách, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chí thiện, chí công vô tư, bồ đề tâm bền vững, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tính thành Phật. 
Trong thực tế xã hội hiện nay, còn tồn tại nhiều mâu thuẫn, bất cập giữa các nền triết học, khoa học kỹ thuật, nghiên cứu lịch sử tiến hoá toàn diện mọi mặt của loài người, muôn loài chúng sinh, tôn giáo, đảng phái, giai cấp, quốc gia, dân tộc trên thế giới. Điều đó do chính chúng ta là những người tổ chức lãnh đạo thực hiện, dẫn đạo, truyền đạo, giới thiệu đạo giáo nói chung, không đúng với chân tướng của tất cả các sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, làm sai đi đạo lý phương pháp, nguyên tắc, cảnh giới của các pháp giới chính pháp, với mục đích xấu tà ác, như là sự tham, sân, si, mạng, nghi, tà tri tà kiến, tự tư tự lợi, ích kỷ keo kiệt, ghen ghét đố kỵ, tự cao tự đại, những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, khổ đau, phiền não, sự phân biệt, chấp trước, vọng tưởng. Cho nên xã hội ngày nay mới nảy sinh ta những sự mâu thuẫn bất cập, dẫn tới hậu quả xấu tà ác nghiêm trọng, thật là đáng thương xót vô cùng. 
Tất cả các nền văn hoá tôn giáo, triết học, đảng phái, quốc gia, dân tộc, nhân loại trên toàn thế giới, đều nhằm mục đích hướng thiện đến chí thiện, giúp ích bình đẳng cho mọi người có được chân thật những lợi ích công đức, phước báu, hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chí thiện, chí công vô tư và có được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, bình yên bền vững, vì một thế giới hoà bình, tập trung dân chủ, đoàn kết thống nhất, hợp tác phát triển mọi mặt toàn diện đời sống văn hoá giáo dục, an ninh chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật, bình đẳng cùng có lợi.
Chúng ta là những con người thật sự may mắn, khi được sống trong thời đại ngày nay, có sự tiến bộ văn minh hiện đại về tất cả mọi mặt đời sống văn hoá tôn giáo, triết học, khoa học kỹ thuật, nghiên cứu lịch sử tiến hoá về tất cả mọi sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, một cách đầy đủ, toàn diện, hiệu quả, chân thật nhất. Tất cả những nền văn hoá tôn giáo, triết học, khoa học, quốc gia, dân tộc trên thế giới, đều có mục đính hướng dẫn, thương sót, truyền đạo, giới thiệu những phương pháp, nguyên tắc, đạo lý hướng thiện, lãnh dữ làm lành, bỏ tà ác quy chính nghĩa, giúp ích cho chúng ta, có được chân thật những lợi ích công đức, phước báu, trình độ hiểu biết trí tuệ cao đẳng, chí thiện, chí công vô tư. Nói cách khác, tất cả các nền văn hoá tôn giáo, triết học, khoa học kỹ thuật, nghiên cứu lịch sử tiến hoá về tất cả mọi sự vật, sự việc, hiện tượng trong vũ trụ nhân sinh này, đều là pháp phương tiện thiện xảo có tác dụng giúp đỡ chúng ta, nhân loại trên toàn thế giới, chúng sinh tận hư không khắp các pháp giới, bình đẳng có được sự hiểu biết trí tuệ cao đẳng, công đức, phước báu, được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, thành đạt, ung dung, tự tại, bình yên bền vững. 
Như vậy, chúng ta cần tinh tấn, rốt ráo học Phật tu pháp hoặc học tập bất cứ nền văn hoá giáo dục, tôn giáo, triết học của các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới, hiểu thấu được tất cả các giáo lý đó, buông bỏ được những giả tướng, những tập tính thói quen nghiệp chướng xấu tà ác, tu hành các công đức bằng bất cứ pháp môn nào, phát được bồ đề tâm, được minh tâm kiến tính thành Phật. 
 
Danh sách công đức
 
 
1 TS.Nguyễn Quốc Tuấn Viện Nghiên cứu Tôn Giáo 0912.817766
2 GS.TS. Nguyễn Hùng Hậu Học Viện Hành Chính Quốc Gia 0912.859.895
3 Trần Thanh Hà Tạp Chí Nghiên Cứu Phật Học 0914923656
4 Nguyễn Hồng Hiển Hà Nội 0903.412.296
5 Dương Xuân Số 57A, ngõ 160, Hoàng Mai, Hà Nội 0989.495.788
6 Thúy Nam Thắng Số 67, Ngõ 9, Đào tấn, Hà Nội 0945.333.958
7 Nguyễn Tuấn Dũng Bạn cùng học cấp II- Bắc Giang 0982.051.178
8 Lê Minh Ngọc Bạn cùng học cấp II- Bắc Giang 0169.7135..204
9 Trần Thị Loan P.209 A12, Nghĩa tân, CG-HN 0988.262.689
10 Lương Viết Giảng Phòng vé máy bay HAMYSON 0916.330.066
 
 
NHà XUấT BảN TÔN GIáO
Phường Yên Hòa, Quận Cầu Giấy - Hà Nội
ĐT: 04-37822845 – Fax (04)37822841
Email: nhaxuatbantongiao@gmail.com
 
 

TRẦN MINH HÙNG

Tổng số điểm của bài viết là: 54 trong 12 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Từ khóa: n/a

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

Trang chủ  |  Giới thiệu  |  Tin tức sự kiện |  Thông báo  |  Văn bản pháp Luật  |  Cư sĩ Phật tử  |  Gia đình Phật tử  |  Tìm hiểu Phật giáo  |  Pháp âm  |  Đời sống  |  Từ thiện |  Gửi bài viết
______________________________________________________________________________________________________________________________________________

Quý vị vui lòng ghi rõ nguồn Phattu.vn khi phát hành lại nội dung từ trang web này