Khái niệm phương tiện thiện xảo (Thích Nguyên Hiệp) - Phật Giáo Việt Nam
14:52 +07 Thứ bảy, 11/05/2024

Khái niệm phương tiện thiện xảo (Thích Nguyên Hiệp)

Thứ sáu - 27/07/2012 14:50
(HDPT) - Phương tiện thiện xảo (S. upāya kauśalya; P. upāya kosalla) là một khái niệm quan trọng trong Phật giáo Đại thừa. Khái niệm này được đề cập đến trong số bản kinh như Pháp Hoa, Bát Nhã, Duy Ma Cật và Phương Tiện. Và khái niệm này được hiểu theo nhiều cách khác nhau, tuỳ theo từng ngữ cảnh.
 
Phương tiện thiện xảo (S. upāya kauśalya; P. upāya kosalla) là một khái niệm quan trọng trong Phật giáo Đại thừa. Khái niệm này được đề cập đến trong số bản kinh như Pháp Hoa, Bát Nhã, Duy Ma Cật và Phương Tiện. Và khái niệm này được hiểu theo nhiều cách khác nhau, tuỳ theo từng ngữ cảnh.

 

Thường, phương tiện thiện xảo được hiểu như là một phương cách mà chư Phật và Bồ-tát sử dụng trong việc thuyết giảng giáo pháp cho những đối tượng khác nhau, tuỳ theo căn cơ của họ, đưa họ đến giác ngộ theo một cách hiệu quả nhất. Và như vậy, người sử dụng phương tiện thiện xảo là người có thể biết được căn cơ và tâm thức của những đối tượng cần giáo hoá, qua đó truyền trao cho họ những giáo lý và phương pháp tu tập thích hợp với khả năng của họ. Nói cách khác, người thực hành phương tiện thiện xảo là người có đủ trí tuệ và từ bi: trí tuệ thấy rõ căn cơ của chúng sanh và truyền trao cho họ những giáo pháp thích hợp; từ bi là động lực thúc đẩy việc cứu độ chúng sanh.

 

Trong Phật giáo Đại Thừa, trí tuệ, từ bi và phương tiện thiện xảo là ba đặc tính không thể thiếu của một vị Bồ-tát. Có thể nói như thế này, trí tuệ là nội dung, lòng từ bi là sự thể hiện nội dung đó, và phương tiện thiện xảo là cách chuyển đổi nội dung thành một hành động cụ thể. TrongBodhisaṃbhāraka (Bồ đề tư lương luận)ngài Long Thọ xem lòng từ bi là kết quả của việc kết hợp của trí tuệ và phương tiện thiện xảo: “Trí tuệ bát nhã là mẹ của chư Bồ-tát, phương tiện thiện xảo là cha của họ, và lòng từ bi là con gái của họ.”

 

Những thời kỳ giáo hoá khác nhau của đức Phật, điều được trình bày qua một số kinh điển Đại thừa, và về sau qua “hệ thống phán giáo” của các tông phái Phật giáo Trung Hoa, cũng được xem là áp dụng phương tiện thiện xảo. Khái niệm này cũng chỉ cho những việc làm “bất khả tư nghì” của chư Bồ-tát vì lợi ích của chúng sanh, hoặc vì lợi ích của số đông. Trong Thập Địa kinh, khi đạt tới quả vị thứ bảy là Viễn hành địa, một vị Bồ-tát sẽ có đủ những phương tiện thiện xảo để giáo hoá chúng sanh. Bên cạnh, trong đời sống thực tế, khái niệm này còn được hiểu theo những chiều hướng khác nhau, và cũng được “thực hành” với những “mục đích” khác nhau.

 

Thuận ngữ “phương tiện thiện xảo” ít xuất hiện trong các kinh tạng Nikaya. Trong Theragāthā của Tiểu Bộ Kinh, thuật ngữ này được đề cập trong một bài kệ: “Với phương tiện thiện xảo/Ta, bà con mặt trời/ Ðược hướng về chánh lý/ Làm ta thoát sanh hữu.” (Theragāthā, 158). Trong Suttanipāta, cũng thuộc Tiểu Bộ Kinh, thuật ngữ này lại được nhắc đến:“Như người được leo lên/ Chiếc thuyền mạnh vững chắc/ Ðược trang bị đầy đủ/ Mái chèo và tay lái/ Người như vậy ở đây/ Giúp nhiều người ngược dòng/ Rõ biết những phương tiện/ Thiện xảo và sáng suốt.”(Suttanipāta, kệ 321). Khái niệm này cũng xuất hiện trong kinh Saṅgīti (Phúng tụng) của Trường Bộ kinh III.

 

Nếu ta hiểu phương tiện thiện xảo là những phương cách giáo hoá “thiện xảo” khác nhau của đức Phật thì điều này đã xuất hiện trong kinh tạng Nikaya. Trong kinh tạng Nikaya, ta thấy đức Phật đã dùng nhiều phương thức khác nhau để giáo hoá chúng sanh; những phương thức đó có khi là những lời dạy về các chuẩn tắc đạo đức, có khi chỉ ra những phương pháp tu tập cụ thể, có khi bằng những câu chuyện ẩn dụ, có khi là sự thể hiện thần thông và cũng có khi bằng sự im lặng.

 

Phần đầu của bài viết này tìm hiểu một vài khía cánh liên quan đến “phương tiện thiện xảo” như được nhìn thấy trong kinh tạng Nikaya.

 

Phương cách giáo hoá của đức Phật

 

Sau khi chứng ngộ, vào lúc đầu đức Phật không có ý định truyền giảng những gì mà Ngài đã giác ngộ bởi vì nhận thấy rằng những sự thật mà Ngài chứng đắc khó cho người khác lãnh hội. Nhưng sau lời thỉnh cầu của Phạm thiên Sahampati và quán sát căn tánh của chúng sanh, thấy mặc dù có người chưa đủ căn trí để lĩnh hội giáo pháp, nhưng có người có thể thọ nhận được, đức Phật đã bắt đầu vận chuyển pháp luân, truyền giảng lại những gì mà Ngài thấy biết từ sở chứng của mình.

 

Việc đức Phật chưa vội chuyển pháp luân sau khi chứng ngộ và đợi đến khi có lời thỉnh cầu của Phạm thiên Sahampati, được xem là một “phương tiện thiện xảo” trong bước đầu hoằng hoá độ sinh của Ngài. Giữa một nền văn hoá và triết học ảnh hưởng sâu sắc Bà-la-môn giáo, việc thỉnh cầu của một vị thần của chính tôn giáo đó muốn nói lên rằng xã hội đó đang cần đến một nguồn giáo pháp mới giúp họ đạt được những lợi ích trong đời sống tâm linh. Và giáo pháp được thuyết giảng là bởi vì có người đang khát khao cần đến.

 

Khi xã hội cần đến nguồn giáo pháp mới ấy rồi, nhưng để giáo pháp ấy đến được với mọi người từ những giai tầng khác nhau trong xã hội lại cần đến một sự hoá độ “thiện xảo”. Kinh Thánh Cầu (Trung Bộ I) đã ví dụ chúng sanh trong cõi đời như những hoa sen ở trong hồ: có hoa sen đã vươn lên khỏi mặt nước, nhưng cũng có những hoa sen chưa vượt lên khỏi mặt nước. Chúng sanh ở trong cõi đời cũng vậy, có người “ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm.” Vì chúng sanh căn trí khác nhau, nên giáo pháp dù rằng chỉ có “một vị duy nhất là vị giải thoát”, cần được truyền giảng bằng những phương cách khác nhau.

 

Như chúng ta đã biết, bài pháp đầu tiên đức Phật thuyết giảng cho năm anh em tôn giả Kiều Trần Như là Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkappavattana), và sau đó là Vô Ngã Tướng (Anattalakkhana), và năm vị này chứng đắc quả vị Alahant sau khi nghe những thời pháp này. Tiếp theo đức Phật giáo hoá Yasa và 54 người bạn của ông. Sau đó Ngài đến Uruvela và hoá độ 30 thanh niên; rồi hoá độ ba anh em Ca Diếp (Kassapa) thờ lửa cùng với 1000 đệ tử của họ. Những sự kiện này xảy ra vào năm đầu tiên sau khi đức Phật giác ngộ. Vào năm thứ hai, việc hoá độ Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên được xem là điểm móc quan trọng trong việc hoằng hoá của Ngài.

 

Ta thấy rằng, hầu hết những người được đức Phật hoá độ đầu tiên là những người trước đó đã thực hành đời sống tôn giáo, có đời sống tâm linh sâu và có căn trí cao; và họ đã dễ dàng đắc được thánh quả chỉ qua một thời pháp do “ít nhiễm bụi đời” và nhờ vào sự “lợi căn”. Việc hoá độ những người này và rồi họ trở thành những người đầu tiên mang sứ vụ truyền giảng giáo pháp, được xem phương tiện thiện xảo trong việc khởi đầu truyền bá giáo pháp của đức Phật. Việc theo đức Phật của những người đệ tử đầu tiên, với sự ảnh hưởng của họ trước đó, hẳn giúp cho việc truyền bá giáo pháp được thuận tiện hơn.

 

Nhưng sự nghiệp truyền bá giáo pháp của đức Phật không chỉ dừng lại nơi những người có căn trí cao. Trong suốt 45 năm hoằng hoá, đức Phật đã gặp nhiều hạng người xuất thân từ những giai tầng xã hội khác nhau. Đọc kinh sách, chúng ta có thể thấy được sự linh hoạt của đức Phật trong việc truyền bá giáo pháp và cảm hoá quần chúng. Có những đối tượng đức Phật giảng dạy cho họ về giáo lý Duyên khởi, Vô Ngã, Tứ đế, nhưng có những đối tượng đức Phật giảng dạy cho họ những chuẩn tắc đạo đức, những cách thức hành xử trong đời sống hàng ngày, như những mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa thầy và trò, giữa ông chủ và người làm công, giữa bạn bè với nhau…(những điều này được trình bày trong kinh Thiện Sanh, Trường Bộ Kinh).

 

Trong kinh tạng, đôi khi ta thấy, dù đức Phật không thừa nhận các Vedas và hệ thống triết học của Bà-la-môn giáo, những cũng có trường hợp Ngài lại dạy cho các Bà-la-môn cách thức sinh về thế giới Phạm Thiên. Chẳng hạn như trường hợp đức Phật dạy cho hai thanh niên Bà-la-môn cách thức hợp nhất với Phạm thiên, qua việc thực hành tứ vô lượng tâm: từ, bi, hỉ và xả.

 

Chúng ta có thể tìm thấy nhiều trường hợp hoá độ “thiện xảo” khác của đức Phật ở trong kinh tạng. Ở đây xin dẫn ra thêm vài trường hợp có thể coi là nổi bật.

 

Thứ nhất là việc đức Phật cảm hoá Angulimala. Angulimala vốn là một tên cướp khét tiếng, đã từng giết vô số người vô tội, lấy ngón tay xâu thành chuỗi và đeo lên cổ. Đức Phật vì muốn cảm hoá nên đã vận sức thần thông đến trước ông. Khi thấy đức Phật đi ở phía trước, Angulimala đã cố sức đuổi theo với hy vọng sẽ có được ngón tay cuối cùng xâu vào xâu chuỗi của mình. Nhưng ông đã không thể nào đuổi theo kịp đức Phật. Vô vọng, ông đã thét lớn bảo đức Phật hãy dừng lại. Đức Phật trả lời rằng Ngài đã dừng chân lại rồi, cho dù Ngài đang đi; và hỏi Angulimala đã dừng lại hay chưa. Sau đó đức Phật giảng giải rằng Ngài đã dừng chân là đã dừng lại các ác nghiệp, những điều gây tổn hại cho chúng sanh; và khuyên Angulimala hãy dừng tay lại, chớ nên tiếp tục giết hại đồng loài. Lòng từ bi và phương cách giáo hoá thiện xảo của đức Phật đã cảm hoá được Angulimala. Sau đó ông xuất gia và chứng đắc thánh quả.

 

Câu chuyện khác là việc đức Phật hoá độ cô Kisa Gotami. Kisa Gotami đau buồn cùng cực khi người con nhỏ của cô qua đời. Cô ôm xác con đi khắp nơi với hy vọng sẽ tìm được người có thể cứu sống được đứa con tội nghiệp của mình. Và rồi cô tìm đến đức Phật.

 

Đức Phật bảo với cô rằng, Ngài sẽ cứu sống con của cô nếu cô xin được cho Ngài một nắm hạt mù-tạc tại một nhà mà nơi đó trong quá khứ chưa từng có người chết. Cô Gotami vâng lời và đi tìm xin hạt mù-tạt theo lời yêu cầu của đức Phật. Nhưng cô không thể tìm ra được hạt mù-tạt tại một gia đình mà ở đó chưa từng có người thân qua đời trong quá khứ; và điều này đã giúp cô hiểu ra rằng cái chết là một vấn đề không ai tránh khỏi, khác nhau là nó đến sớm hay muộn. Hiểu được sự thật đó, cô ôm xác con vào rừng chôn cất và sau đó quay lại với đức Phật, xin phép xuất gia và về sau đã chứng được thánh quả.

 

Những câu chuyện được dẫn ở trên là vài trong vô số những câu chuyện liên quan đến những phương cách giáo hoá thiện xảo của đức Phật. Những phương cách giáo hoá này dù khác nhau, nhưng chúng đều được đặt cơ sở trên trí tuệ và từ bi.

 

Sự im lặng của đức Phật

 

Đức Phật đã từng im lặng trước những câu hỏi siêu hình, như: thế giới là thường hằng hay vô thường, hữu biên hay vô biên; sinh mạng và thân là một hay là khác; Như Lai tồn tại sau khi chết hay không tồn tại sau khi chết… Trong một số trường hợp đức Phật cũng từ chối câu hỏi có ngã hay không có ngã; và đôi khi cũng từ chối trả lời về sự vận hành của nghiệp. Sự im lặng của đức Phật trước những câu hỏi siêu hình này đã đưa đến những ý kiến “trái chiều” của hậu thế; và người ta cũng tốn rất nhiều bút mực để bàn luận về vấn đề này và ghán ghép Ngài thuộc vào trường phái này hay trường phái kia. Chẳng hạn như gán cho Ngài thuộc trường phái bất khả tri, hay hoài nghi.

 

Ở một gốc độ, “sự im lặng của đức Phật” trước những câu hỏi siêu hình có thể được xem là một “phương tiện thiện xảo” trong giáo hoá. Trong Tương Ưng Bộ kinh, khi du sĩ Vacchagotta hỏi rằng con người có tự ngã hay không có tự ngã, đức Phật đã im lặng trước câu hỏi này. Và khi du sĩ Vacchagotta đi rồi, tôn giả Ananan hỏi rằng tại sao đức Phật không trả lời những câu hỏi của vị du sĩ ấy, thì đức Phật đáp rằng nếu Ngài trả lời có tự ngã thì điều đó xác định rằng Ngài ủng hộ thuyết thường hằng; còn nếu Ngài bảo không có tự ngã thì điều đó có nghĩa rằng Ngài ủng hộ thuyết đoạn diệt.

 

Có người cho rằng rằng sự im lặng của đức Phật trước câu hỏi có ngã hay không có ngã là một cách gián tiếp xác định không có ngã, bởi vì trong những bài kinh trước đó, như kinh Vô ngã tướng chẳng hạn, đức Phật đã khẳng định rằng không có ngã. Nhưng đối với du sĩ Vachagotta, đức Phật đã giữ thái độ im lặng, vì nghĩ rằng câu trả lời của Ngài không đem lại lợi ích cho vị du sĩ này.

 

Trong một số trường hợp khác, đức Phật dạy rằng việc quán chiếu khổ đau, nguyên nhân của khổ và tu tập đoạn trừ khổ đau thì quan trọng và thiết thực hơn việc tìm hiểu những câu hỏi siêu hình. Tuy nhiên, sự im lặng của đức Phật đã trở thành đề tài tranh luận của hậu thế; và sự im lặng của Ngài cũng đã mở ra một cánh cửa khác trong việc phát triển Phật giáo về sau.

 

Giáo pháp là một phương tiện

 

Trong kinh Ví Dụ Con Rắn (Alagaddùpama sutta, Trung Bộ I), đức Phật dạy rằng người học đạo nên áp dụng giáo pháp vào trong đời sống theo một cách thức khôn khéo và đúng đắn. Giáo pháp chỉ là một phương tiện, và nếu người sử dụng phương tiện đó với múc đích giải thoát khổ đau, thì người đó được xem là có trí tuệ. Còn người học giáo pháp chỉ vì“muốn chỉ trích người khác” hay chỉ vì “muốn khoái khẩu biện luận”, thì người đó đangnắm giữ giáo pháp sai lạc, được xem là không thiện xảo và trí tuệ trong việc học Phật.

 

Cũng trong kinh Ví Dụ Con Rắn, đức Phật đưa ra một ví dụ rằng, có một người đi đến một vùng nước rộng, có nhiều nguy hiểm, và người này đã dùng nhành cây và các vật dụng khác để kết thành một chiếc bè để vượt qua vùng nước sâu rộng và nguy hiểm đó. Và sau khi đưa ra ví dụ này, đức Phật hỏi các Tỳ-kheo rằng, nếu người dùng chiếc bè để vượt qua vùng nước ấy, sau đi đã qua bờ bên kia rồi, vẫn chấp chặt vào chiếc bè, thì người ấy có phải là người có trí tuệ không. Các Tỳ-kheo trả lời rằng “không”. Người được xem là có trí tuệ là người sau khi đã qua đến bờ bên kia rồi, biết bỏ đi chiếc bè ấy.

 

Chiếc bè trong bài kinh này được ví với giáo pháp, nó như một phương tiện để đưa người qua biển khổ; và một người khi đã “vượt qua bờ bên kia” rồi thì hãy bỏ chiếc bè lại. Và bài kinh kết lại rằng “Chánh pháp còn phải bỏ đi, huống nữa là phi pháp.”

 

Những ý tưởng ở trên chúng ta cũng có thể tìm thầy trong kinh Kim Cương. Và với câu nói “chánh pháp còn phải bỏ đi, huống nữa là phi pháp” trong kinh Ví Dụ Con Rắn, cho thấy rằng giáo pháp chỉ là một phương tiện, không phải là chân lý. Tuy nhiên người ta phải cần đến phương tiện đó để đạt đến chân lý; nhưng mỗi khi đã đạt được chân lý thì cần phải bỏ phương tiện ấy đi. Điều này cũng tương tự như những gì được nói trong kinh Viên Giác: giáo pháp như ngón tay, và chân lý như mặt trăng, phải nương theo ngón tay để thấy mặt trăng những đừng lầm chấp ngón tay là mặt trăng.

 

Những câu chuyện Tiền thân (Jātaka)

 

Những câu chuyện Tiền thân là một phát triển về sau, và được xem là một “sử liệu” phản ánh trung thực những gốc độ khác nhau của xã hội Ấn Độ vào thời điểm các câu chuyện này được sáng tác, và cả những thời kỳ trước đó.

 

Về phương diện Phật học, các câu chuyện Tiền thân nhấn mạnh một điều rằng, để thành tựu Phật quả, người ta cần phải trải qua nhiều kiếp thực hành Bồ-tát hạnh với các Ba-la-mật. Công việc của một Bồ-tát thì không giới hạn ở trong tự viện, hay ở nơi một hình thức nào. Bồ-tát trong các câu chuyện Tiền thân, xuất hiện với những hình thức khác nhau. Nhưng cho dù hiện thân với hình thức nào, một vị Bồ-tát luôn cho thấy là có trí tuệ, luôn phát khởi lòng từ bi và hành động với nhiều “phương tiện thiện xảo” khác nhau vì lợi ích của kẻ khác. Cũng có thể xem hình ảnh Bồ-tát trong các câu chuyện Tiền thân là “phương tiện” gợi nguồn cảm hứng cho việc phát triển học thuyết Bồ-tát trong Phật giáo Đại thừa về sau.

 

Ở trên chúng ta tìm hiểu một vài vần đề ở trong kinh tạng Nikaya mà chúng ít nhiều liên hệ đến khái niệm “phương tiện thiện xảo”. Như đã nói từ lúc đầu, khái niệm “phương tiện thiện xảo” chính yếu được sử dụng trong Phật giáo Đại thừa. Vì vậy để hiểu rõ hơn về khái niệm này, chúng ta cần thảo luận thêm với việc dẫn chứng những kinh và luận Đại thừa có liên quan. Chúng tôi sẽ trở lại đề tài này trong một bài viết khác./.

Ở bài viết trước, chúng ta đã bàn về một vài khía cạnh của khái niệm Phương tiện thiện xảo trong Nikaya. Bài này sẽ tìm hiểu khái niệm phương tiện trong Phật giáo Đại thừa. Phương tiện thiện xảo được đề cập đến trong nhiều kinh sách Đại thừa, và có ba bản kinh nhấn mạnh khái niệm này là Pháp Hoa, Duy Ma Cật và Thiện Phương Tiện. Ở đây tôi chỉ sẽ tìm hiểu khái niệm phương tiện nơi ba bản kinh này. Và những trình bày ở đây cũng chỉ là khái lược.

 

Phương tiện thiện xảo trong kinh Pháp Hoa (Saddharmapuṇḍarīka Sūtra)

 

Kinh Pháp Hoa đặc biệt quan trọng đối với Phật giáo Đại thừa, và có thể nói là một trong những bản kinh phổ biến nhất. Kinh Pháp Hoa đề cập đến một số giáo lý quan trọng như Nhất thừa, Phật tính và Phương tiện. Về khía cạnh “tín ngưỡng”, bản kinh nhấn mạnh vào Tín (śraddhā), với các tín ngưỡng thờ tháp, tụng đọc kinh sách, mà về phương diện lịch sử đã phản ánh một trào lưu thực hành tôn giáo vào thời điểm bản kinh hình thành.

 

Kinh Pháp Hoa thể hiện một sự dung hoà tông phái, mong muốn đưa tất cả các pháp môn và các “thừa” (yāna) về một nguồn. Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa và Bồ-tát thừa chỉ là những phương tiện đưa đến Phật thừa; và do đó không có gì chống trái nhau mà chỉ là những phương tiện tạm thời trong con đường tu tập. Và kinh Pháp Hoa cho rằng “vì không có thừa thứ hai trong mười phương thế giới, có thể nào lại có thừa thứ ba!”

 

Phẩm Thí Dụ của kinh Pháp Hoa kể câu chuyện về căn nhà đang bóc cháy trong khi những người con của vị trưởng giả cứ mãi say chơi bên trong. Vị trưởng giả vì muốn cứu các con ra khỏi ngôi nhà lửa ấy nên bảo các con ông hãy ra bên ngoài và hứa sẽ cho họ “xe hươu, xe dê, xe trâu”. Những loại “xe” khác nhau này chỉ là những phương tiện để đưa những người con trong ngôi nhà lửa đang bóc cháy thoát ra khỏi đó. Nhưng khi những người con của ông đã thoát ra khỏi ngôi nhà lửa rồi, thì ông đều cho họ cùng một loại xe, lớn và đẹp.

 

Kinh Pháp Hoa cho rằng quả vị cuối cùng của một hành giả là Phật quả, bởi vì tất cả chúng sanh đều có Phật tính. Nhưng con đường tu tập của hành giả có thể khác nhau do vì căn cơ sai biệt. Và do vì căn cơ của chúng sanh không giống nhau, chư Phật đã phải sử dụng những phương thức giáo hoá khác nhau. Nhưng những phương thức giáo hoá khác nhau này cuối cùng sẽ đưa đến một đích chung, đó là Phật thừa: “Xá-lợi-phất, chư Phật trong quá khứ sử dụng vô số phương tiện thiện xảo, những nguyên tắc và các điều kiện khác nhau, cùng những ngôn từ so sánh và minh họa để giảng giải giáo pháp vì lợi ích của chúng sanh. Tất cả những giáo pháp này vì một Phật thừa duy nhất. Tất cả chúng sanh, qua việc lắng nghe giáo pháp của chư Phật, cuối cùng có thể đạt được nhất thiết chủng trí.”

 

Kinh Pháp Hoa trình bày nhiều câu chuyện và ẩn dụ khác nhau để nói đến sự thiện xảo trong phương tiện giáo hoá của chư Phật. Con đường luân hồi vời vợi, chúng sanh hẳn đôi khi cần đến những trạm dừng chân tạm thời. Có những giáo pháp chỉ như “những thành quách được hoá hiện” cho chúng sanh tạm ngơi nghỉ, để sau đó tiếp tục hành trình tìm đến quả vị Phật mà nó vốn không phải là con đường dễ dàng. Giáo pháp là “dược thảo”, có thể chữa lành bệnh khổ của chúng sanh, nhưng để chúng sanh sử dụng “thuốc” đó cũng phải cần đến phương tiện…

 

Kinh Pháp Hoa cho rằng sự xuất hiện của chư Phật ở thế gian này là để khai mở “tri kiến Phật” cho tất cả chúng sanh, giúp chúng sanh thấy rõ Phật tính của mình, và sự xuất hiện của đức Phật ở cõi đời là một phương tiện vì lợi ích của chúng sanh: “Chư Phật, chư Thế Tôn, muốn mở cánh cửa tri kiến Phật đối với tất cả chúng sanh, để đưa họ đến thanh tịnh. Đó là tại sao chư Phật xuất hiện ở đời. Chư Phật muốn chỉ tri kiến Phật cho chúng sanh, và do đó chư vị xuất hiện ở đời. Chư Phật muốn giúp chúng sanh thấy rõ tri kiến Phật, do đó chư vị xuất hiện ở đời. Chư Phật muốn giúp chúng sanh đi vào con đường tri kiến Phật, và do đó chư vị xuất hiện ở đời. Xá-lợi-phất, đây là lý do chính yếu đức Phật xuất hiện ở đời.”

 

Phương Tiện Thiện Xảo Trong Kinh Duy Ma Cật (Vimalakīrtinirdeśa Sūtra)

 

Kinh Duy Ma Cật đề cập đến một số giáo lý quan trọng như Tánh không, Nhị đế, Bất nhị và Phương tiện, cũng như đề cập đến những giáo pháp căn bản khác như vô thường, khổ và vô ngã… Kinh Duy Ma Cật cũng nỗ lực trình bày một phương cách thực hành Phật pháp ở bên ngoài đời sống tự viện. Nói cách khác, Kinh Duy Ma Cật trình bày một phương cách thực hành Phật pháp ở nơi đời sống trần tục, không bị rào cản vào trong một hình thức và giới hạn ở nơi một phạm vi nào.

 

Cũng như kinh Pháp Hoa, kinh Duy Ma Cật dành riêng một phẩm để nói về giáo lý phương tiện. Tuy nhiên cũng có thể nhận thấy rằng, tinh thần “phương tiện” hiện diện xuyên suốt bản kinh này. Đoạn mở đâu của phẩm Phương Tiện giới thiệu về trưởng giả Duy Ma Cật, nhân vật chính của bản kinh này, cũng được xem là người thực hiện phương tiện một cách thiện xảo: “Bấy giờ, trong thành Tỳ-da-li có vị trưởng giả tên Duy-ma-cật, hằng cúng dường vô lượng Phật, trồng sâu gốc rễ thiện, chứng đắc vô sanh pháp nhẫn, có tài biện thuyết vô ngại, hiện du hí thần thông, nắm vững các tổng trì, đạt được vô sở uý; khuất phục mọi thù nghịch quấy nhiễu của Ma, thấu hiểu mọi Pháp môn sâu thẳm, dẫn đến giác ngộ, thiện xảo trong trí độ và biết diệu dụng các phương tiện thích hợp để giáo hóa, hoàn thành được mọi đại nguyện của Bồ tát. Ông biết rõ xu hướng của tâm của chúng sinh, có thể phân biệt căn tính bén nhạy hay chậm lụt. Đã từ lâu tâm của ông đã thành thục trong Phật đạo, đã quyết định nơi Đại thừa. Mọi hành động của ông đều dựa trên tư duy chân chánh. An trú trong oai lực nhiệm mầu của Phật, tâm ông luôn trải rộng như đại dương. Được chư Phật ca ngợi; hàng Đế-thích và Phạm-thiên kính phục.” (TT. Tuệ Sỹ dịch).

 

Qua đoạn kinh trên, phương tiện trước hết là cách sử dụng những phương pháp thích hợp khác nhau để hoá độ chúng sanh. Nhân vật Duy Ma Cật trong bản kinh được đề cập đến như một vị Bồ-tát tại gia thành đạt trong đời sống trần tục, nhưng lại am hiểu và thực hành rốt ráo Phật pháp; và hơn hết, có khả năng sử dụng “vô vàn phương tiện để giảng dạy chánh Pháp vì lợi ích của chúng sinh.” Sự xuất hiện với hình thức cư sĩ của ông, và việc ông “diệu dụng” tham gia vào những công việc ở đời, đều là những phương tiện qua đó ông có thể truyền trao giáo pháp và làm lợi ích chúng sanh: “Ông đã vận dụng phương tiện chọn Tỳ-da-li làm nơi thường trú để hoá độ chúng sinh. Bằng gia sản vô lượng của mình, ông cứu giúp người cùng khổ. Bằng sự thanh tịnh của giới, ông nhiếp phục người phá giới. Bằng sự nhu hoà thuận nhẫn, ông nhiếp phục người sân hận. Bằng đại tinh tấn, ông nhiếp phục người biếng nhác…. Tuy là cư sĩ ông vẫn tự tại không vướng mắc ba cõi. Tuy thị hiện có vợ con ông luôn sống đời tịnh hạnh. Tuy hiện thân giữa các thuộc hạ, vẫn thường vui thú viễn ly... Tiếp nhận dị đạo mà không hủy chánh tín. Thông hiểu kinh điển thế gian, nhưng thường hâm mộ Pháp Phật… Rong chơi trên các ngõ đường, vẫn không quên giúp ích mọi người. Vào chốn công đường để bảo vệ kẻ thế cô. Tham gia các nghị hội để đưa người vào Đại thừa. Đến các trường học để khai sáng tâm mọi người. Vào nơi kỹ viện để cho thấy tai họa của dục vọng. Vào trong tửu lâu mà vẫn vững vàng ý chí...” (TT. Tuệ Sỹ dịch).

 

Bồ-tát đi vào đời với tâm từ bi vô lượng. Với “phương tiện huệ”, Bồ-tát nhận thấy rằng chính mình với chúng sanh là “bất nhị”. Khổ đau của người khác, do đó, cũng như khổ đau của chính bản thân mình. Bởi vì chúng sinh bệnh khổ nên Bồ-tát cũng bệnh khổ. Mỗi khi bệnh của chúng sinh được chữa lành thì Bồ-tát sẽ lành bệnh. Bệnh của Bồ-tát, do đó, là sự thể hiện của từ bi. Nói cách khác, bệnh của Bồ-tát là phương tiện qua đó chỉ cho chúng sanh thấy được khổ, nguyên nhân và cách thức thoát khổ: “Si và hữu ái là nguồn gốc của bệnh tôi. Vì hết thảy chúng sinh bệnh mà tôi bệnh. Bao giờ hết thảy chúng sinh đạt đến chỗ không bệnh, bệnh tôi sẽ hết. Vì sao? Bồ tát, vì chúng sinh mà đi vào sinh tử. Có sinh tử thì có bệnh. Nếu hết thảy chúng sinh được thoát ly bệnh khổ thì Bồ tát không còn bệnh. Ví như, vị trưởng giả chỉ có đứa con một; khi người con ấy bị bệnh, cha mẹ nó cũng bị bệnh. Nếu nó bình phục, cha mẹ nó khỏe. Cũng vậy, Bồ tát yêu thương chúng sinh như cha mẹ yêu con, nên chúng còn bệnh thì Bồ tát còn bệnh; khi chúng hết bệnh, Bồ tát khỏe! Câu hỏi tiếp theo là, bệnh của Bồ tát từ đâu phát sinh? Bệnh của Bồ tát xuất phát từ tâm đại bi.” (TT. Tuệ Sỹ dịch).

 

Bởi vì căn tánh và nghiệp lực của chúng sanh trong cõi đời không hề giống nhau, nên không có một hình thức hoá độ được ấn định bất biến dành cho tất cả mọi hạng người, không có một giáo pháp hay một pháp môn duy nhất dành cho tất cả. Bởi vì khổ đau của chúng sanh với muôn hình vạn trạng, Bồ-tát đi vào đời với những phương tiện khác nhau để làm lợi ích chúng sanh, không chỉ bằng một phương thức duy nhất. Và bởi vì những điều kiện quốc độ không giống nhau, “Phật sự” của chư Bồ-tát không có cùng một khuôn mẫu. Dó đó: “Có cõi Phật lấy ánh quang minh của Phật làm Phật sự. Có cõi lấy chư Bồ tát làm Phật sự. Có cõi lấy hóa nhân làm Phật sự. Có cõi lấy cây bồ-đề làm Phật sự. Có cõi lấy y phục, ngọa cụ của Phật làm Phật sự. Có cõi lấy cơm làm Phật sự. Có cõi lấy hoa viên, đền các làm Phật sự. Có cõi lấy ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của Phật làm Phật sự. Có cõi lấy thân Phật làm Phật sự. Có cõi lấy hư không làm Phật sự; chúng sinh nhờ các duyên này mà có thể nhập luật hạnh…” (TT. Tuệ Sỹ dịch). Tinh thần này hẳn không chỉ tồn tại trong kinh sách, mà có thể thấy rõ ở nơi đời sống thực tế. Và để thực hiện điều này, Bồ-tát cần phải có đủ trí tuệ và từ bi.

 

Kinh Duy Ma Cật cũng coi phương tiện là cách giúp hành giả thoát ra khỏi sở chấp và bám víu. Bám ví, dù vào vị ngọt của thiền hay những quả vị tu chứng đều bị coi là trói buộc: “Cho nên, Bồ tát chớ tự trói buộc mình. Thế nào là trói buộc? Thế nào là cởi mở? Tham đắm vị ngọt của thiền là trói buộc của Bồ tát. Bằng phương tiện mà tái sinh, đó là Bồ tát cởi trói. Lại nữa, không có phương tiện huệ là trói buộc; có phương tiện huệ là cởi trói. Không có huệ phương tiện là trói buộc; có huệ phương tiện là cởi trói.” Do đó Bồ-tát thiện xảo trong phương tiên sẽ “Tu học Không mà chẳng lấy Không làm chỗ chứng đắc; tu học Vô tướng, Vô tác mà không lấy Vô tướng, Vô tác làm sở chứng; tu học vô khởi mà không lấy vô khởi làm sở chứng; quán vô thường mà không nhàm chán gốc thiện; quán sự khổ của thế gian mà không chán ghét tử sinh; quán vô ngã mà dạy người không mệt; quán niết bàn mà không vĩnh viễn tịch diệt; quán viễn ly mà thân tâm vẫn thường hành việc thiện; quán không có chỗ quy về mà tâm vẫn quy về thiện pháp; quán vô sinh nhưng vẫn bằng sinh pháp mà gánh vác tất cả; quán vô lậu mà không đoạn trừ các lậu; quán không có chỗ sở hành mà vẫn hành pháp giáo hóa chúng sinh; quán Không mà không xả đại bi; quán chánh pháp vị mà không theo lối Tiểu thừa; quán các pháp hư vọng, không bền chắc, không người, không chủ, không hình tướng, nhưng vì bản nguyện chưa đầy nên không xem là hư dối các công đức, thiền định, trí tuệ.” (TT. Tuệ Sỹ dịch).

 

Như đã nói ở trên, kinh Duy Ma Cật nhấn mạnh việc thực hành Phật pháp ngay nơi đời sống thường nhật thế gian. Vì nhấn mạnh vào điều này, nhiều nơi trong kinh Duy Ma Cật đã phê bình cách hiểu và thực hành Phật pháp truyền thống. Phương tiện trong kinh Duy Ma Cật, do đó cũng là cách vượt qua khỏi những gì được cho là khuôn mẫu. Chúng ta có thể tìm thấy điều này nơi phẩm “Chúng đệ tử”: “Bất tất ngồi như vậy mới là ngồi tĩnh niệm. Hiện thân và ý mà không ở trong ba cõi, ấy mới là tĩnh tọa. Hiện các oai nghi mà vẫn không xuất khỏi diệt tận định, ấy mới là tĩnh tọa. Hiện thân làm các việc phàm phu mà không xả Đạo pháp, ấy mới là tĩnh tọa. Tâm không trụ trong, không trụ ngoài, ấy mới là tĩnh tọa. Tu hành ba mươi bảy phẩm mà không làm dao động các kiến chấp, ấy mới là tĩnh tọa. Nhập Niết bàn mà không đoạn trừ phiền não, ấy mới là tĩnh tọa. Ngồi được như vậy, thì mới được Phật ấn khả.” (TT. Tuệ Sỹ dịch).

 

Phương tiện thiện xảo trong kinh Thiện Phương Tiện (Upāyakauśalya Sūtra)

 

Trong kinh Thiện Phương Tiện, phương tiện có thể được phân thành hai phần: cuộc đời của đức Phật Thích Ca là một sự thể hiện phương tiện thiện xảo, và phương tiện thiện xảo là những việc làm đặc biệt của chư Bồ-tát.

 

Theo kinh này, cuộc đời của đức Phật từ lúc nhập vào thai tạng cho đến khi niết-bàn là một quá trình thực hiện những phương tiện thiện xảo. Kinh Thiện Phương Tiện cho rằng việc đức Phật đản sinh vào trong hoàng cung, kết hôn và sau đó xuất gia, đều là những phương tiện. Những sự kiện đó nhằm cho chúng sanh thấy rằng, cuộc sống dù quyền quý, giàu sang và đầy lạc thú, nhưng việc xuất gia, giác ngộ thành Phật lại cao quý hơn.

 

Kinh này cũng cho rằng, đức Phật nhập thai tạng và xuất hiện ở cõi đời không phải do nghiệp lực, mà Ngài xuất hiện vì hạnh nguyện giáo hoá chúng sanh. Đức Như Lai đã thành Phật từ vô lượng kiếp, sự thành Phật dưới cội bồ đề chỉ là một phương tiện thiện xảo. Hay nói như kinh Duy Ma Cật, “đức Phật hiện thân trong đời năm trược ác, hiện hành pháp này để cứu độ chúng sinh.”

 

Phương tiện của chư Bồ-tát là việc thực hiện rốt ráo các ba-la-mật với mong muốn chứng đạt giác ngộ và cứu độ chúng sanh. Kinh Thiện Phương Tiện cho rằng, một vị Bồ-tát dù bố thí một mẩu thức ăn nhỏ cho một con thú, thì việc bố thí đó phải hướng đến việc cầu trí tuệ giác ngộ và hồi hướng phước đức có được cho chúng sanh. Và bằng phương tiện thiện xảo, khi Bồ-tát thực hiện một việc làm bố thí, thì đồng thời cũng đang thực hiện các ba-la-mật còn lại. Kết thúc phần nói về phương tiện của chư Bồ-tát, kinh Thiện Phương Tiện nói rằng: “Kāśyapa, chư Đại Bồ-tát tu tập phương tiện thiện xảo thì có vô lượng đức tính. Kāśyapa, vị Đại Bồ-tát sẽ không thực hiện việc gì làm hại mình hay hại người, cũng không nói lời làm hại mình hay hại người.” Như vậy, phương tiện thiện xảo cũng là không làm hại mình, hại người; và tích cực hơn, là làm lợi mình lợi người.

 

Tuy nhiên, kinh Thiện Phương Tiện đã thuật lại một số câu chuyện mà chúng đặt ra những thách thức về giới luật và đạo đức. Kinh này kể lại một số trường hợp, các Bồ-tát để thực hiện phương tiện thiện xảo vì lợi ích của chúng sanh, hay vì lợi ích của số đông, đã vượt qua nhưng giới luật căn bản.

 

Kinh kể lại câu chuyện rằng, vào một tiền kiếp, đức Phật là một vị Bồ-tát dẫn đầu một đoàn thương buôn 500 người. Và trong số này có một tên cướp trà trộn vào và y đã manh tâm muốn sát hại đoàn thương nhân để đoạt tài sản. Bồ-tát biết được dã tâm của tên cướp và ngài nghĩ rằng, nếu ngài giữ im lặng và để tên cướp kia thực hiện hành vi “giết người cướp của” thì y sẽ lãnh quả báo đọa vào địa ngục. Còn nếu Bồ-tát tiết lộ cho đoàn thương nhân biết ý đồ của tên cướp, đoàn thương nhân chắc chắn sẽ phẫn nộ và ra tay trừng phạt tên cướp kia, và như vậy đoàn thương nhân cũng sẽ chịu quả báo rơi vào đường ác. Và kinh này cho rằng, sau nhiều ngày đêm suy nghĩ, vì lòng từ bi, Bồ-tát đã ra tay hạ sát tên cướp kia, để cho y và đoàn thương nhân tránh được nghiệp xấu và khỏi rơi vào ác đạo. Việc làm này của Bồ-tát, được bản kinh xem là một phương tiện thiện xảo.

 

Phương tiện trong bản kinh này, cũng như một vài trường hợp mà chúng ta có thể gặp ở phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm, đã đặt ra những tranh luận về vấn đề đạo đức. Nếu như giới không sát sinh phải áp dụng vào trong mọi trường hợp, thì như vậy một hành động sát sinh với động cơ nào đi nữa, cũng trở thành sai. Nhưng đạo đức của Đại thừa được đặt cơ sở trên lòng từ bi, vì lợi ích của chúng sanh hay lợi ích của số đông, và như vậy thực hiện phương tiện thiện xảo trong nhiều trường hợp là thực hiện một “đạo đức tình huống.” Nhiều câu chuyện trong kinh này đặt ra những tình huống “nan giải” giữa việc phải chịu vi phạm giới luật hay làm tổn hại lòng từ bi. Tức rằng, nếu Bồ-tát thực hành điều đó ngài sẽ phạm giới, nhưng nếu không thực hiện, ngài sẽ làm tổn hại lòng từ bi. Một hành động đúng hay sai, như vậy, phải được đặt vào trong từng ngữ cảnh hay tình huống cụ thể, và ngay cả động cơ của người thực hiện hành động đó (tuy nhiên, để biết được động cơ điều này lại rất khó).

 

Phương tiện ở đây, do đó, là một sự linh hoạt trong hành động để thích ứng với từng hoàn cảnh cụ thể, là một khả năng thích ứng ngữ cảnh được đặt cơ sở trên trí tuệ và lòng từ bi. Tức Bồ-tát thực hiện một hành động, có khi hành động đó vượt ra khỏi giới luật, nhưng vì lợi ích của chúng sanh, Bồ-tát quyết định làm.

 

Từ những xem xét sơ lược về khái niệm phương tiện được đề cập trong những bản kinh ở trên, chúng ta có thể tóm tắt lại như sau: phương tiện là những cách thức giáo hoá khác nhau của đức Phật, tuỳ theo khả năng và căn cơ của chúng sanh mà trao cho họ những giáo pháp thích hợp; Phật giáo có các thừa (yāna) khác nhau, nhưng những thừa này chỉ là phương tiện để đưa đến một thừa cuối cùng là Phật thừa; Phương tiện là tinh thần không bám víu vào pháp môn và quả vị tu chứng; phương tiện là trí tuệ thấy rõ tính không của các pháp và sống bằng một tinh thần không thủ chấp; sự đản sanh của đức Phật ở cuộc đời này là một phương tiện vì lợi ích của chúng sanh; phương tiện là làm việc vì lợi ích của người khác; và phương tiện là khả năng giải quyết những tình huống nan giải, giữa việc vi phạm giới luật và việc làm tổn hại lòng từ bi, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích của tha nhân…

 

Thích Nguyên Hiệp

 
Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Từ khóa: khái niệm

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

Trang chủ  |  Giới thiệu  |  Tin tức sự kiện |  Thông báo  |  Văn bản pháp Luật  |  Cư sĩ Phật tử  |  Gia đình Phật tử  |  Tìm hiểu Phật giáo  |  Pháp âm  |  Đời sống  |  Từ thiện |  Gửi bài viết
______________________________________________________________________________________________________________________________________________

Quý vị vui lòng ghi rõ nguồn Phattu.vn khi phát hành lại nội dung từ trang web này