Thi Điếu Cố Đại Trưởng Lão Minh Châu - Phật Giáo Việt Nam
09:18 +07 Thứ ba, 14/05/2024

Thi Điếu Cố Đại Trưởng Lão Minh Châu

Thứ bảy - 15/09/2012 21:38
(HDPT) - ...
 

 

 

 

 

 

 

 

Tưởng niệm giác linh Người,

 

Hỡi ôi!

 

Kính quý thay!

 

Bi xót thay!

 

Sinh diệt tợ đốm hoa

 

Sắc không như ánh chớp

 

Đám mây trắng ngàn năm ly hợp

 

Cõi bụi hồng muôn kiếp tụ tan

 

Hậu học sa-môn thương tiếc, bàng hoàng

 

Tứ chúng đoanh vây, trái tim lệ chảy

 

Lẽ vô thường xót đau ba cõi

 

Luật hữu vi băng giá một trời

 

Trưởng lão ra đi,

 

Núi non tâm, đạo đức cao ngời

 

Sông biển trí, nhân văn bát ngát

 

Chẳng lẽ từ đây

 

Đúng thời mạt pháp

 

Cành nhánh khô gầy

 

Cỗi gốc cũng điêu linh

 

Nhìn đăm đăm trang giấy vô tình,

 

Không nói được tấm lòng bi điếu

 

Tay run mỏi, chữ thừa, lời thiếu

 

Dẫu mưa rơi, sương rỉ chương ngàn

 

Bút lẽ nào, tre chẻ Lĩnh Nam!

 

Mực không thể, nước đong Đông Hải!

 

Người đã trải lá bối

 

Dệt vầng trăng

 

Thiên thu soi đuốc tuệ

 

Ánh chớp hiện, nghi dung đại sĩ

 

Đốm hoa lưu, linh ảnh chân nhân

 

Thoáng trăm năm đại nguyện vi trần

 

Đàm hoa rụng thơm hương,

 

Lại rơi, lại rơi...

 

Rơi vào dòng bất tử...

 

Trưởng lão ra đi

 

Cỗi tùng già lá xanh bật khóc

 

Đất thiền lâm hiu hắt giọt sương khô

 

Dòng nước xao, hình núi lặng tờ

 

Làn mây thoảng, ánh sao vời vợi!

 

 

 

Hỡi ôi!

 

Nhớ giác linh xưa

 

Thế danh Đinh Văn Nam

 

Sinh năm Mậu Ngọ

 

Nguyên quán Kim Khuê

 

Nghi Lộc, Nghệ An

 

Từ nhỏ lớn lên  

 

Nuôi chí sách đèn

 

Năm ba chín lấy bằng cao đẳng

 

Và sự học, thuyền êm, biển lặng

 

Một chín bốn mươi lại đỗ tú toàn

 

Bởi cơm, bởi áo - làm việc tòa khâm

 

Vì nước, vì dân - dốc lòng phụng sự

 

Ngày cau mặt, xót điều phi lý

 

Đêm nhức đầu, đau chuyện bất công

 

Bởi vậy cho nên

 

Bỏ cửa quan, quay gót, rảnh lòng

 

Rời đường hoạn, phủi tay, lìa bụi

 

Rồi từ đó

 

Hiểu nghiệp quả, ra công học Phật

 

Biết duyên đời, gắng sức nghiên kinh

 

Sáng lập đoàn Đức Dục thanh niên

 

Lại dựng xây gia đình Hóa Phổ

 

Hiểu sức mạnh tăng sinh tuổi trẻ

 

Chung tay lo học viện Kim Sơn

 

Rồi lại thêm Báo Quốc học đường

 

Không mệt mỏi ươm mầm giáo pháp

 

Năm bốn sáu xuất gia đầu Phật

 

Chùa Tường Vân, cố Tăng Thống ân sư

 

Bút mực, sách đèn - sớm tối kinh thư

 

Rau muối, tương dưa - tháng ngày công hạnh 

 

Năm bốn chín, duyên tu thuận cảnh

 

Báo Quốc giới đàn minh chứng thập sư

 

Đặc cách thọ tam đàn cụ túc tỳ-khưu

 

Minh Châu pháp tự,

 

Viên Dung pháp hiệu

 

Tâm bồ-đề từ đây kiên cường, vững chãi

 

Ghé hội, đoàn - rèn tâm giảng pháp

 

Đến chùa, am - tập trí bàn kinh   

 

Những tháng, những năm

 

Tạp chí Viên Âm,

 

Tạp chí Từ Quang... góp bài viết đạo tình

 

Chọn ý ngọc gieo ươm chánh tín

 

Lựa lời châu bày tỏ duyên căn  

 

Trường trung học Bồ Đề - hiệu trưởng đầu tiên

 

Với giới nghi, đầu tròn, áo vuông

 

Bằng mô phạm, mắt xanh, viên trắng

 

Gót nhập thế, đạo đời tương đẳng

 

Đuốc từ bi, lặng lẽ lên đường 

 

Một chín năm hai, đạt nguyện xuất dương

 

Đến Thiên Trúc tìm thầy học đạo

 

Gương Nghĩa Tịnh ngời soi Bắc quốc

 

Trăng Huyền Tráng chiếu rọi Nam bang

 

Vò võ đất nghèo, pháp học ra công

 

Quạnh quẽ phòng đơn, quặng vàng thử lửa

 

Thấy cám dỗ, nhẹ nhàng đóng cửa

 

Nghe rủ rê, thanh thản quay lưng

 

Gian khổ nhiều năm, nuôi chí hạc hồng

 

Bay vạn dặm câu kinh, con chữ

 

Anh, Hán ra sức nghiên tầm,

 

Saṅskrit - Pāḷi, cố công đối so cổ ngữ

 

Quyết mò châu đáy biển từ nguyên

 

Tay mỏi, mắt đau

 

Tìm cho ra giọt nước trinh tuyền

 

Tự suối nguồn trong ngần giáo pháp

 

Chẳng nệ hà thử thách,

 

Nào sá quản gian lao

 

Cay đắng, chát chua – quả vị ngọt ngào

 

Cơ cực, khó khăn – hoa hương vi diệu

 

Hai cử nhân Pāḷi - Anh dấu son khoa biểu

 

Cao học A-tỳ-đàm nhẹ lấy thủ khoa

 

Đỗ tiến sĩ Phật học,

 

Văn học Pāḷi – đứng đệ nhất tòa

 

Tổng thống Ấn Độ đích thân trao bằng danh dự

 

Đại học Tích Lan, thêm bằng pháp sư bổ xứ

 

Là sa-môn Việt đầu tiên xuất sắc nguyên khôi

 

Cầm đuốc tiên phong học thuật sáng ngời

 

Lấy duệ trí phát quang con đường đại học

 

Một chín sáu tư lên tàu về nước

 

Rồi trọn tuổi trời lá bối chép kinh

 

“Thị nghiệp” một đời “duy tuệ” đăng trình...  

 

 

 

Hỡi ôi!

 

Nhớ giác linh xưa

 

tịch mịch con đường

 

Thề không đổi chí khí kiên cường

 

Nguyện chẳng rời kinh văn dị giản

 

Muốn học Nhật Nam tăng [1]

 

Cửa tùng đôi cánh gài

 

Dịch kinh trên lá chuối

 

Bông mây rụng áo phơi

 

Lại noi Vô Ngại Thượng Nhân [2]

 

Giữa đời xa phiền não

 

Trong phố dựng già-lam

 

Nhuận văn, hương ngát cõi

 

Soạn sách, bút thơm lan

 

Chầu thiền, câu xanh mớm

 

Nghe giảng, vượn trắng dòm

 

Dầu can qua biến động

 

Dẫu rào cản trùng vây

 

Xem cát chạy, đá bay

 

Ngắm sóng dồn, gió dập

 

Cay cay mắt - bụi mây vinh nhục

 

Xót xót tai - lời gió thị phi

 

Đời tối, đêm đen, đội chữ mà đi

 

Phụng hiến nhân văn, lương sư hưng quốc

 

Gương Vạn Hạnh, trụ thiền chống cột

 

Hộ pháp ba triều, xã tắc bình yên  

 

Hiền đức, hiền tài, nguyên khí càn khôn

 

Đã vạn quyển khuyên son

 

Đã trăm kinh thắp lửa

 

Đêm cô tịch đốt đèn soi ngữ nghĩa

 

Thương Tăng Ni kinh chữ mượn vay

 

Đâu quản cao sơn, gió lạnh lắt lay

 

Chẳng nệ bối kinh, chợ chiều bạc bẽo

 

Bút chánh pháp kế thừa ân di giáo

 

Thoảng ngoài tai tám pháp thế gian!

 

Đã liễu tri định luật bất toàn

 

Đã giác ngộ căn nhân khổ đế

 

Nên việc đến, tùy duyên xử sự

 

Gió qua rồi ruột trúc rỗng không

 

Mỉm danh thân - gió sóng phiêu bồng!

 

Cười sự nghiệp - sương mây phiếu diễu!

 

Đại trí giữa đời, cung đàn lạc điệu

 

Sao lẻ đêm đông, buốt lạnh thái hư!

 

Trưởng lão ra đi, an lạc nhiên như

 

Tăng Ni hậu học, tàn che cô quạnh

 

Giữa cát bụi, ngời soi giáo hạnh

 

Trong sa mù, rạng chiếu chân dung

 

Thấy tiết thu, sương giọt bảy dòng [3]

 

 Nghe thời thế, gió xao ba khoảnh [4]

 

Tâm nhân giả, lợi danh khô lạnh

 

Đức trượng phu, tài sắc rỗng rang

 

Năng lượng từ bi, hòa ái, dịu dàng

 

Bởi thế cho nên

 

Quyền biến cơ tuỳ

 

Thân hành, ngôn giáo

 

Chân dung sáng, nụ cười hoan hỷ

 

Khiêm hư một đời

 

Lặng lẽ bóng hoà trăng

 

Mà hãy thôi

 

Trưởng lão đã trở về với cố quận, gia hương[5]

 

Chẳng hữu chẳng thường

 

Không sinh không diệt

 

Cánh hạc vàng thiên thu bái biệt

 

Thiên hà ngôn tai

 

Vạn sự như lai

 

Giác linh đã như lai như khứ...

 

Đê đầu kính điếu

 

Hậu học sa môn

 

 

 

Huế - Thu sương trắng

 

Rừng Thiền Huyền Không Sơn Thượng

 

Tỳ-khưu Giới Đức

 

(Minh Đức Triều Tâm Ảnh)

 

 

 

Chú thích:

 

1- Xem “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” của GS Lê Mạnh Thát

 

2- Sách đã dẫn trên.

 

3- Bảy tình: Hỷ, nộ, ái ố, ai, lạc, dục

 

4- Ba độc tham, sân, si.

 

5- Từ câu thơ của vua Trần Thái Tông: “Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách, nhật viễn gia hương vạn lý trình”

 

Tỳ-khưu Giới Đức

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Từ khóa: n/a

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

Trang chủ  |  Giới thiệu  |  Tin tức sự kiện |  Thông báo  |  Văn bản pháp Luật  |  Cư sĩ Phật tử  |  Gia đình Phật tử  |  Tìm hiểu Phật giáo  |  Pháp âm  |  Đời sống  |  Từ thiện |  Gửi bài viết
______________________________________________________________________________________________________________________________________________

Quý vị vui lòng ghi rõ nguồn Phattu.vn khi phát hành lại nội dung từ trang web này