Mộc Miên Hương Tích - Tinh phiêu một vẻ đẹp - Phật Giáo Việt Nam
23:52 +07 Chủ nhật, 12/05/2024

Mộc Miên Hương Tích - Tinh phiêu một vẻ đẹp

Chủ nhật - 03/03/2013 13:12
Mộc Miên Hương Tích - Tinh phiêu một vẻ đẹp

Mộc Miên Hương Tích - Tinh phiêu một vẻ đẹp

(HDPT) - Khi chùa Hương vào mùa khai hội cũng là lúc những nụ hoa bắt đầu lốm đốm trên những cành lá khẳng khiu vừa trải qua một mùa đông lạnh giá. Bỗng bừng nở. Như thắp lên ánh nến. Bắt đầu lung linh.
 
 
 Khi chùa Hương vào chính hội, độ giữa tháng hai âm, tháng ba dương, cũng là lúc những bông hoa rực lên vẻ đẹp bản nguyên của mình. Một màu đỏ lửa. Ấm hồng giữa trời núi Hương sơn. Hết hội thì những bông hoa cũng rụng rơi xuống gốc cây, xuống dòng Yến Vĩ, nhưng chưa tàn những cánh hoa đã cháy hết mình cho một mùa xuân hội. Đó chính là những bông hoa mộc miên ở chùa Hương. Một vẻ đẹp tinh phiêu của Tùng lâm Hương tích...

Không biết từ khi nào đã có những cây gạo dọc đường vào chùa Hương. Từ khi những viên gạch đầu tiên dựng xây nên ngôi cổ tự này, từ khi những phiến đá đầu tiên được đặt trên con đường dẫn lối vào Thiên Trù mà bây giờ có tên là Triều sơn lộ? Hay từ khi chúa Thánh Tổ Thịnh Vương Trịnh Sâm đến đây với một tâm trạng hoan hứng đề thơ lên cửa động Hương Tích dòng chữ Nam Thiên Môn? Bởi có những cây gạo giờ đã thành cổ thụ. Ý thức về một cảnh quan tâm linh mà người dân bản địa nơi đây đã trồng những cây gạo ấy hay là ý tưởng của một vị khách thập phương về một hàng nến được thắp lên khi hội chùa xuân đến? Bởi những cây gạo đã góp phần vào tổng thể thắng tích Hương sơn tinh phiêu một vẻ đẹp, dù bất kỳ ở góc độ nào. Như một nghệ thuật sắp đặt, những cây gạo dọc theo dòng suối, chạy dài từ bến đò Yến Vĩ đến bến Trò, dưới chân núi, cháy đỏ cả một khoảng trời, như những ngọn nến trời được ai đó thắp lên để khách thập phương chuẩn bị dâng hương lên Phật bà chùa Hương. Những ngọn nến trời mộc miên thắp suốt cả mùa hội. Tôi hỏi vị sư trụ trì chùa, đại đức Thích Minh Hiền, rằng ai đã trồng những cây gạo ấy? và trồng từ bao giờ? Vì trước những vẻ đẹp tôi thường muốn khám phá tận khởi nguyên của những vẻ đẹp ấy và bởi tôi biết rằng chính thầy là người đã đưa vẻ đẹp mộc miên chùa Hương vào nghệ thuật nhiếp ảnh của mình bằng những tấm hình mang nhiều triết lý nhân sinh Phật giáo. Đại đức không trả lời trực tiếp nỗi băn khoăn của tôi mà chỉ nói về những nét đẹp của một loài hoa ở Tùng lâm Hương Tích. Hãy đến và cảm nhận. Rồi bạn sẽ thấy những câu hỏi đó không còn quan trọng nữa, không quan trọng bằng vẻ đẹp của loài hoa ấy đã hiện hữu ở nơi đây vừa tự nhiên vừa mang ý nghĩa linh thiêng. Sự hiện hữu của loài hoa ấy ở chốn linh thiêng này tự nó đã là một giá trị. Không biết cái đẹp bắt nguồn từ sự linh thiêng hay là cái đẹp tạo ra sự linh nghiêm đây? 



Đỏ nhức nhối. Nở rực rỡ. Người đồng bằng miền xuôi gọi là hoa gạo. Người miền núi phía Bắc gọi là hoa mộc miên. Người Tây Nguyên thì gọi là hoa pơlang. Cái tên pơlang có vẻ hoang dã, như chính cái tên mảnh đất bazan hùng vĩ. Còn hoa gạo nghe thật dân dã, giản dị. Chỉ có cái tên mộc miên là lãng mạn hơn cả. Lãng mạn để điểm xuyết cho khung cảnh triền sông, vách đá, thác nước giữa điệp trùng núi mây miền Tây Bắc. Điểm xuyết cho bầu trời tháng ba…

Một năm có mười hai tháng. Mỗi tháng lại có một mùa hoa để người ta nhớ thương. Hoa mai, hoa đào ngự trị mùa xuân. Hoa loa kèn gọi tháng tư về. Hoa phượng vĩ đỏ trời tháng sáu. Hoa sen níu giữ mùa hạ. Hoa cúc vàng rực mùa thu. Còn hoa gạo là loài hoa thuộc về tháng ba. Tây Nguyên tháng ba rực lên màu bất tận của những lễ hội là bởi sắc đỏ của pơlang cứ miên man. Những cánh hoa dầy dặn, gợi cảm như đôi môi người đàn bà đang yêu. Thẫm đỏ. Như quầng lửa cháy khôn nguôi. Những nắm bông của quả gạo trắng tinh, nhẹ như hơi thở người con gái, vấn vương như sợi tơ trời. Nữ nhà thơ Bình Nguyên Trang yêu tháng ba có lẽ cũng bởi yêu loài hoa gạo - mộc miên ấy. Trong bài thơ Tự tình tháng ba chị viết: Xin được bắt đầu bằng hai chữ bình minh/ Cho bài hát hoài niệm về quê cũ/ Dẫu tháng năm chưa bao giờ yên ngủ/ Và trong tôi hoa gạo vẫn nhọc nhằn. Hoa gạo gắn trong kỷ niệm nhiều người là một thời thơ ấu đầu trần chân đất. Cây gạo đứng ở đầu làng. Chị hai gánh đồ đi chợ, dừng chân dưới gốc gạo, ngồi hóng mát. Cây gạo như một tình yêu cô độc… 

Đỏ khắc khoải. Như ai đó vãi lửa đam mê vào trời cháy bỏng. Hoa vắt kiệt sức mình rồi bời bời rụng rơi như tia chớp, xoáy tròn tít như những cái chong chóng đỏ từ trên trời ai thả xuống, thẳng đứng và phát ra tiếng động. Lẽ thường thì hoa tàn rồi hoa rụng. Nhưng mộc miên – hoa gạo, sắc hoa vẫn một màu chẳng phai từ khi kết nụ đến ngày cánh hoa rơi. Như một sự tiếc nuối. Chưa tàn những cánh hoa đã rụng rồi. Thực là tiếc nuối. Ấn tượng về loài hoa mộc miên trong tôi là sự nuối tiếc. Vẻ đẹp hoa mộc miên trong những tác phẩm nghệ thuật cũng là ấn tượng ấy, sự nuối tiếc ấy. Từ lâu hoa mộc miên đã đi vào âm nhạc Huy Du với bài hát nổi tiếng về cây gạo miền biên ải. Những bông gạo lã chã rơi trong giai điệu Ngọc Đại/ thơ Phan Huyền Thư. Những bông hoa gạo rụng rơi trong ngày chị sinh của Trọng Đài/ Đoàn Thị Tảo thật tê tái. Và bây giờ hoa gạo đỏ như máu ứa trong thơ Nguyễn Linh Khiếu với giải thưởng thơ tạp chí Văn Nghệ Quân Đội năm 2009. 

Có một loài hoa độc đáo, vừa quen vừa lạ ở ngôi chùa cổ trên mảnh đất Hà Tây cũ: hoa sen đất chùa Bối Khê, Thanh Oai (trên ANTGCT số 74 đã viết). Còn hoa gạo thân thiết với mọi người, như là chị tôi, như tháng ba. Thân cổ thụ, gốc xù xì nhiều hang hốc là nơi trú ngụ của những hồn ma, cây gạo được trồng nhiều ở những nơi linh thiêng để các cô hồn lang thang được nương tựa bóng Thần, Phật mà siêu thoát. Thế nên định vị trong tâm thức Việt, cây gạo được nhắc đến bằng thành ngữ Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề với một phép siêu nhiên thần bí là vậy. Cây gạo còn là một vị thuốc trong y học cổ truyền. Cây gạo, hoa gạo trong dân gian là như thế. Truyền thuyết hoa mộc miên kể rằng đó là mối tình nồng thắm giữa chàng trai nghèo và cô sơn nữ xinh đẹp. Khi họ chuẩn bị làm lễ cưới thì trời đổ cơn mưa lũ lướn cuốn phăng ngôi nhà và lễ vật của chàng. Dân bản trồng cây nêu để chàng lên trời hỏi sự tình. Trước khi đi chàng buộc dải vải đỏ có tua năm cánh vào tay cô gái thay cho thề nguyền tình yêu. Lên trời bị Ngọc Hoàng giao cho việc giúp thần Sấm làm mưa. Chàng trai phải ở lại, nhớ người yêu, nước mắt rơi lã chã. Còn cô gái ngày nào cũng trèo lên cây nêu trông ngóng. Một ngày tháng ba, Ngọc Hoàng xuống hạ giới. Biết chuyện, ngài cho nàng một điều ước. Nàng ước cây nêu biến thành loài cây thân thẳng, có rễ bám sâu, ngọn cao để có thể nhìn thấy chàng, dải vải đỏ biến thành bông hoa để anh ấy có thể nhận ra nàng. Rồi nàng gieo mình từ trên cao xuống. Nhìn những bông hoa bất tận đỏ nâng niu linh hồn người yêu, thần Mưa lại tuôn nước mắt… 



Hoa gạo có ở nhiều nơi. Ở phủ Quốc, hoa gạo có ở trước Nguyệt hồ chùa Thầy. Đôi cây gạo đẹp nhất khi đứng ngắm từ đỉnh núi Thầy. Lúc đó hoa gạo tựa như Mandala của xứ Đoài. Còn ở Tùng lâm Hương tích này, hoa gạo là ngọn nến thiêng. Hoa gạo chùa Hương như một pháp khí trong bộ bát cát tường. Khi đến miền đất Phật Hương sơn này, những bông hoa gạo trở nên linh phiêu hơn, sắc màu dường như cũng trở nên mật tông hơn, bí huyền hơn. Những cây gạo như những cái nến trời khổng lồ, mang nét cổ kính như một món đồ cổ gia bảo của nhà chùa. Khi những bông gạo rụng rơi, tôi tưởng như những giọt nến chảy xuống, vương trên dòng suối Yến, bên sân đền Trình... 

Xưa, Trúc Vân Chu Mạnh Trinh tới vãn cảnh chùa Hương. Thốt lên trước cảnh đẹp nơi đây ông vẩy bút thành những câu thơ Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái/ Lửng lơ khe yến cá nghe kinh. Đọc lại những vần thơ tuyệt bút ấy, tôi thấy ông sử dụng nghệ thuật nhân cách hóa thật là đắc dụng. Chim, cá ở đây cũng như người, hướng tâm mình về với Phật. Nhưng đại đức Thích Minh Hiền lại cho rằng đó không phải là phép tu từ. Mà theo kinh điển Phật giáo thì các chư vị Phật có thể cảm hóa muôn loài nên có những bức tranh vẽ phật bà Quan thế âm bồ tát cưỡi hổ. Ngẫm lại thấy đúng là mỗi loài đều có một ngôn ngữ riêng, có một cách nghe, cảm thụ và phản ứng của riêng mình trước môi trường sống xung quanh. Ở Việt Phủ Thành Chương, như nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nói, mỗi nhành cây ngọn cỏ có thể cảm ứng với niềm vui nỗi buồn của chủ nhân thì ở đây, nơi Tùng lâm hương tích này, những hàng cây gạo, những bông mộc miên đỏ cháy cũng biết tương linh cùng người du xuân trảy hội, đều hướng lòng mình về cõi Phật.

Xưa thi sĩ Tản Đà đến đây, có lẽ là vào mùa hè với rau sắng nên ông không được thấy những bông gạo nở bên dòng Yến Vĩ. Thật tiếc cho ông. Và cũng thật tiếc cho chúng ta vì biết đâu lại sẽ chẳng có những câu thơ được ngân vang lên một cách lộng lẫy về loài hoa vừa khiêm nhường vừa tinh phiêu này. Khi chắp bút đề thơ lên đá, chúa Trịnh có nghĩ rằng bút tích của mình mấy trăm năm sau vẫn vẹn nguyên? Lúc quay bước về phủ, ngoái lại dòng Yến, ông có còn thấy những bông mộc miên rung rinh lửa làm cho ba chữ Nam Thiên Môn thêm phần lung linh? Không biết bao nhiêu những tao nhân mặc khách đã đến đây. Không biết bao nhiêu những nghệ phẩm… đã khắc họa, tụng ca, truyền kỳ về ngọn núi Hương sơn, về cảnh đẹp quần thể thắng tích này. Nhưng mấy ai đã đề cập đến cây gạo với những đốm lửa, quầng lửa mộc miên tinh phiêu như thế?


LÊ BẢO ÂU LONG (PT Diệu Thiện - Cù Lệ Duyên gửi)

 
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Từ khóa: n/a

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

Trang chủ  |  Giới thiệu  |  Tin tức sự kiện |  Thông báo  |  Văn bản pháp Luật  |  Cư sĩ Phật tử  |  Gia đình Phật tử  |  Tìm hiểu Phật giáo  |  Pháp âm  |  Đời sống  |  Từ thiện |  Gửi bài viết
______________________________________________________________________________________________________________________________________________

Quý vị vui lòng ghi rõ nguồn Phattu.vn khi phát hành lại nội dung từ trang web này