Đạo Phật với Văn hoá Hà Nội - Phật Giáo Việt Nam
16:46 +07 Thứ năm, 02/05/2024

Đạo Phật với Văn hoá Hà Nội

Thứ tư - 30/01/2013 22:45
(HDPT) - Đạo Phật và Văn hóa Việt Nam đã hòa nhập với nhau là một. Trong Văn hóa Việt Nam có tinh thần Phật giáo, trong lòng Phật giáo đã có Văn hóa dân tộc.
 
Sự kết hợp này mang tinh thần biện chứng của Triết học Phương Đông và nó đã tạo nên một sức mạnh tinh thần cho cả cộng đồng dân tộc - Việt Nam.
Đạo Phật ra đời từ Vương Quốc Ấn Độ cách đây trên 2500 năm. Người sáng lập ra đạo Phật là Siddhartha (Tất Đạt Đa) họ là Gautama (Cồ Đàm ) là con  vua Suddhodama (Tịnh Phạn ). Theo truyền thuyết Phật sinh vào ngày 08 tháng 04 âm lịch Việt Nam (sách sử ghi là ngày 15 tháng 04 âm lịch Việt Nam), tức ngày 30 tháng 2 âm lịch Ấn Độ và Phật “nhập niết bàn”(mất) khoảng năm 438 TCN, thọ 80 tuổi. Sự ra đời của Đức Phật đã mở ra một nhãn quan mới về sự sống và cái chết, về khái niệm duyên và nghiệp, về sự tự do trong nhận thức và về sự giải phóng tột cùng cho sự sáng tạo. Đức Phật trở thành người thầy muôn đời của nhân loại, Người đã chỉ dẫn cho mọi người con đường giải thoát và giác ngộ - con đường tiếp cận chân lý (con đường thoát khổ). Từ đó, Siddahartha được gọi là Thích Ca Mâu Ni. Suốt 49 năm hành pháp và giảng đạo, Phật cho biết là Ngài chưa nói một lời nào và chỉ ra: “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành”. Người đã chỉ ra con đường “tự giác - giác tha, giác thành viên mãn” (tự giác ngộ và giúp cho người khác giác ngộ một cách toàn vẹn).
Đạo Phật từ Ấn Độ được truyền bá sang Việt Nam trước khi tiếp cận với Phật giáo Trung Hoa. Quá trình giao lưu buôn bán thì đồng thời văn hóa cũng được hội nhập và tiếp biến. Và, Phật giáo đã xuất hiện đầu tiên tại vùng Luy Lâu (Vùng Dâu, Thuận Thành, Hà Bắc) vào cuối thế kỷ thứ 2 (khoảng 168 - 189). Người truyền bá là hai nhà sư Ấn Độ có tên là Khâu Đà La (Maha Ksudra) và Kỳ Vực (Maha Jivaka). Cũng từ đây Phật giáo tiến sâu lên phương Bắc để truyền Đạo Phật sang Trung Hoa.
Do Phật giáo truyền sang nước ta đầu tiên nên trong ngôn ngữ có khái niệm là “Bụt” để phiên âm từ Buddha (Phật). Điều đó được minh chứng trong những chuyện dân gian của nước ta. Có một nghịch lý, là Phật giáo phát triển rất mạnh ở Ấn Độ từ thế kỷ thứ 3 TCN, nhưng sau đó lại lu mờ để những chỗ cho sự phát triển của Ấn Độ giáo. Phật giáo đã được hoằng dương rộng khắp ở khu vực Châu Á và mở rộng sang các nước Châu Âu, đến nay thì có mặt ở khắp  nơi trên toàn thế giới.
Đạo Phật có ba tông phái khác nhau là Thiền Tông, Mật Tông và Tịnh Độ Tông, nhưng đồng quy về một mối đó là “Đạo giải thoát”. Trước hết phải kể đến là Thiền Tông, một trường phái lấy tu thiền làm gốc. Chữ “Thiền” ở đây được viết tắt từ chữ Thiền Na (tiếng Phạn là Dhyna), đó là phép “tĩnh tọa hướng tâm” để thanh trừ tạp niệm, thanh lọc tâm hồn đạt đến hạnh phúc. Có nhiều trường phái Thiền khác nhau, đầu tiên là Thiền phái Vinitaruci (Tỳ ni đa lưu chi) - tên của sư tổ người Ấn Độ - đến Trung Hoa giảng đạo, sau quay về Việt Nam đến chùa Pháp Vân trụ trì và viên tịch tại đấy (mất năm 594). Tiếp đến là Thiền Vô Ngôn Thông do nhà sư Trung Hoa tên là Vô Ngôn Thông, từ Quảng Châu sang Việt Nam, tu ở chùa Kiến Sơ làng Phù Đổng (Bắc Ninh). Trường phái này nhấn mạnh đến chủ trương là Đốn Ngộ và Vô Đắc, tu tập theo kinh Viên giác và kinh Pháp Hoa gần với Thiền tông phương Nam Trung Hoa. Sau đó là các thiền phái khác như Thiền phái Thảo đường, Thiền phái Lâm Tế, Thiền phái Tào Động Liên Tông. Cuối cùng là Thiền Phái Trúc Lâm của Việt Nam, do ba Thiền phái sáp nhập lại đó là: Thiền phái Tỳ ni đa lưu chi, Thiền phái Vô Ngôn Thông và Thiền phái Thảo đường. Sự sáp nhập ba Thiền phái trên là do vua Trần Thái Tông và Tuệ Trung thượng sỹ kết tập lại, đã đưa tới sự phát triển của Thiền phái Yên Tử trở thành Thiền phái Trúc Lâm. Mở đầu Thiền phái này là Thiền sư Hiện Quang, sau đó là Thiền sư Viên Chứng hiệu Trúc Lâm được phong là Quốc sư, thầy của vua Trần Thái Tông, Thiền phái Trúc Lâm có 23 thế hệ. Trường phái này phát triển nhanh chóng do Hòa thượng Pháp Loa trụ trì tại chùa Vĩnh Nghiêm từ năm 1313. Chính nơi đây là nơi hoằng dương đạo pháp mạnh nhất và có tổ chức quy mô cũng như những quy định rõ ràng trong giới luật nhà Phật. Nối tiếp Pháp Loa là Huyền Quang và sau sư Huyền Quang thì Thiền phái Trúc Lâm không còn hưng thịnh nữa vì nhà sư này theo hướng tu ẩn dật nên không được triều đình ủng hộ.
Sau trường phái Thiền tông là đến trường phái Mật tông. Mật tông là giai đoạn phát triển thứ ba của Phật giáo Ấn Độ (Đại thừa). Giai đoạn thứ nhất là Bát Nhã, tiếp theo là giai đoạn Duy Thức. Mật Tông được bắt nguồn từ tư tưởng Bát Nhã cùng với tín ngưỡng dân gian Ấn Độ và với các thuật bùa chú. Theo quan điểm của trường phái này là có những thế lực siêu nhiên bí ẩn trong vũ trụ biết khai thác và sử dụng nó để tạo duyên trên con đường giác ngộ để thành đạo. Quan điểm này phù hợp với văn hóa dân gian bản địa.
Một trường phái khác đó là Tịnh Độ Tông, do nhà sư Kha Tăng Khải (Samghavarman) và Cựu Ma La Thập (Kumarijiva) đặt nền móng tại Ấn Độ. Trường phái này được truyền vào Việt Nam từ rất sớm (khoảng 420- 422). Khác với trường phái khác, Tịnh Độ Tông chủ trương tu chứng bằng con đường niệm danh hiệu Phật “A Di Đà” và cho rằng có sự tác động bằng năng lượng vũ trụ từ bên ngoài (tha lực) đến người tu hành. Quan điểm này trở thành biện pháp tương đối dễ dàng cho những ai một lòng tu tập và có niềm tin vào Phật pháp. Trường phái Tịnh Độ gần gũi với giới bình dân, cho nên khi ra đời đã được truyền bá một cách nhanh chóng ở khắp mọi nơi. Ba tông phái này đều được kết hợp trong việc tu tập của các chùa và nó được biểu hiện trong sự sắp xếp các tượng Phật – các biểu tượng văn hóa truyền thống.
Hệ thống biểu tượng trên chính điện thờ ở các chùa trong phạm vi toàn quốc nói chung cũng như Hà Nội nói riêng đã nói lên tất cả những ý nghĩa mà ba tông phái trên đã kết hợp lại. Mặc dù, từng vùng, miền, từng chùa có sự sắp đặt khác biệt, nhưng tựu chung vẫn biểu thị các hệ thống các biểu tượng gần như nhau:
- Bên trên, đầu tiên tầng trên cùng, được sắp xếp theo thứ tự là ba pho tượng có tên là “Tam Thế Chư Phật” gồm có: bên trái là biểu tượng “Nhiên Đăng Cổ Phật” (vị Phật huyền sử), đó là Phật quá khứ, thời gian vô lượng kiếp, chính giữa là biểu tượng “Thích Ca Mầu Ni”(vị Phật lịch sử) biểu hiện cho Phật hiện tại có mặt cách đây trên 2500 năm, cũng là vị Phật đầu tiên hiện hữu trong cõi nhân gian, với 49 năm truyền đạo pháp cho chúng sinh. Bên phải là biểu tượng Phật Di Đà, biểu thị cho vị Phật hậu kiếp. Khi con người chết đi nếu có tu chứng sẽ được Phật Di Đà cho vãng sinh về cõi cực lạc.
- Tầng tiếp theo là các hệ thống biểu tượng khác cũng gọi là “Tam Thế” (hậu kiếp) nhưng thuộc về “thế giới cực lạc”, gồm ba biểu tượng: Quan Âm - Di Đà - Thế Chí. Phật bà “Quan Thế Âm” đứng phía bên tay trái (từ dưới nhìn lên), biểu tượng cho sự từ bi, bác ái. Tiếp theo là Phật “Di Đà”- giáo chủ của cõi cực lạc, đứng ở giữa, là vị Phật hóa độ chúng sinh khi có sự tu chứng. Đây là biểu tượng của của sự cứu rỗi linh hồn người chết. Biểu tượng bên tay phải là “Quan Thế Chí” biểu tượng cho trí tuệ giúp cho các linh hồn tiếp tục tu chứng.
- Tầng thứ ba là hệ thống các biểu tượng khác cũng được gọi là “Tam Thế” (hiện kiếp), mang tính lịch sử, có từ thời Thích Ca đến nay, gồm có: A Nan tôn giả - Thích Ca Mầu Ni - Ca Diếp tôn giả. Tượng A Nan tôn giả là biểu tượng cho “Đa văn”, tượng Phật Thích Ca biểu tượng cho sự “Minh tuệ”, còn tượng Ca Diếp là biểu tượng cho “Đại trí”.
- Tầng thứ tư là ba pho tượng: Phổ Hiền - Thích Ca Mầu Ni - Văn thù sư lợi. Tượng Phổ Hiền biểu tượng cho sự “Hiền minh”, tượng Thích Ca Mầu Ni biểu tượng cho sự “Minh tuệ”, tượng Văn Thù Sư Lợi biểu tượng cho sự 
“Trí dũng”.
- Tầng tiếp đến là tượng “Cửu Long Tranh Châu”, đó là biểu tượng của sự “Đản sinh” với hình ảnh chín con Rồng che chở cho Đức Phật khi Ngài  ra đời.  Đó là hình ảnh một trẻ sơ sinh bước trên đóa hoa sen, trên nguời có áo choàng vàng quấn ngang vai với một tay chỉ Thiên và một tay chỉ Địa. Theo lịch sử ghi lại, khi Đức Phật hạ sinh thì Ngài đã nói câu bất hủ “ Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn” nhằm khẳng định vai tròkhai sáng của bậc chân sư “Đại Giác” đã xuất hiện để cứu giúp cho chúng sinh khỏi màn “vô minh” che khuất, đồng thời đem đến nguồn sáng “chân lý” để giúp cho chúng sinh vượt qua nỗi thống khổ của nhân gian, đó chính là con đường vượt qua khỏi sinh - lão - bệnh - tử mà mỗi con người đều phải trải qua.
- Tầng cuối cùng là pho tượng Đức Phật Di Lặc (hoan hỷ Phật), một biểu tượng của sự “hoan hỷ”, đem lại sự an vui cho nhân thế. Đây là một vị Phật của tương lai sau sự ra đời của Phật Thích Ca Mầu Ni. Sự xuất hiện của Ngài trong cuối thời mạt pháp (Phật pháp bị phế bỏ) để giúp cho con người nhận ra được chân lý của Như Lai (đấng toàn giác) là đem lại tình yêu thương cho mọi người và xóa bỏ sự hận thù của chúng sinh.
Hai bên chính điện là hệ thống biểu tượng “Thập Điện Diêm Vương”, đó là 10 pho tượng biểu trưng cho những ông vua của 10 tầng địa ngục, cai quản các linh hồn tội lỗi và phán xét phân minh công, tội thật rõ ràng khi họ còn ở trên dương thế lầm lỡ mắc phải. Đây là một mô hình “tượng trưng” mang tính “ẩn dụ” và có tính giáo dục rất cao, nhằm răn đe những người đang sống cố tình làm những điều tội lỗi mà không biết sợ pháp luật.
Bên ngoài chính điện, bên tay trái từ ngoài nhìn vào thường có biểu tượng Địa tạng Vương hoặc Chuẩn đề - Nghìn mắt nghìn tay hay là tượng Quan Âm Tống Tử, bên tay phải là tượng Đức Ông  còn gọi là tượng “Già Lam chân tể” (quản gia trông chùa).
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát là một biểu tượng mang ý nghĩa “Vị tha”. Đó là vị Phật đã thành, nhưng có lời nguyện là được xin xuống dưới Địa ngục để cứu chúng sinh bớt đau khổ, khi nào không còn chúng sinh thì Ngài mới trở thành Phật. Còn bức tượng Phật Chuẩn đề - Nghìn mắt nghìn tay là một biểu tượng độc đáo nhất trong các hệ thống biểu tượng. Đó là một hình tượng được con người hư cấu và sáng tạo ra nhằm biểu thị cho tấm lòng “Đại từ, Đại bi” của Đức Phật Quan Thế Âm, khi Ngài hóa thân biến thành “nghìn mắt” để nhìn khắp cõi nhân gian để thấy hết chúng sinh đau khổ. Và, khi Ngài thị hiện ra “nghìn tay” là muốn ôm tất cả chúng sinh vào lòng để cứu họ khỏi cơn hoạn nạn. Bức tượng “Tống Tử Quan Âm” là nói lên sự “hàm oan” nhưng mang ý nghĩa “nhẫn nhục” chịu đựng. Đó là đức hy sinh và sự khổ hạnh của người tu hành vượt qua những nỗi đau của nhân thế để thành Phật. Xa hơn hai bên cửa chính điện là hai vị Long thần Hộ Pháp, biểu tượng cho Ông Thiện và Ông Ác, một ông là giúp cho người lương thiện, một ông là giúp diệt trừ kẻ ác.
Cuối cùng là Hậu cung thờ các vị Tổ sư có từ xa xưa. Trước hết phải kể đến vị Tổ đầu tiên là Đạt ma Tổ sư - vị tổ thứ nhất của phái Thiền Tông (cũng là Tổ sư của võ phái Thiếu Lâm). Tiếp đó là hệ thống các Tổ sư hình thành nên các phái tu và là những người đã trụ trì ngôi chùa nay đã viên tịch (đã chết).
Nhìn chung, hệ thống biểu tượng trong chùa còn nhiều như là các biểu vật thờ trước chính điện gồm: Đôi hạc thờ hai bên chính điện, Chuông đại hồng chung, Trống, Chiêng, Khánh, Chuông nhỏ, Mõ, Bình hoa, Mâm quả, Lư hương, Bình nước, Chóe nước, Đỉnh trầm, Đôi đèn, Bát hương…ngoài ra còn Hoành phi, Câu đối, Đại tự, Võng, Lọng, Ngai thờ, Cờ, Quạt, Tranh, Ảnh, Hình ảnh, Hoa văn (tôn giáo).
Bên ngoài, còn có nhiều biểu tượng khác như biểu tượng Lư hương Công đồng tứ phủ to để ngoài sân, dành cho khách thập phương đến chiêm bái thắp hương bên ngoài lễ vọng. Một biểu tượng khác là Nhà hóa vàng dùng để hóa tiền vàng cúng cho cô hồn và những người đã khuất. Có chùa còn có biểu tượng Quan Âm lộ thiên và cây hương để thắp. Hai bên có các biểu vật như bình hoa, mâm quả. Có chùa còn xây hồ bán nguyệt, biểu tượng cho “Minh đường” lấy sinh khí cho chùa. Hai bên có tay Long và tay Hổ bao quanh, biểu tượng cho phong thủy. Trên nóc chùa có các đầu đao với biểu tượng “Tứ linh” (Long, Lân, Quy, Phượng) hoặc trên nóc còn các biểu tượng “ Vòng tròn có hình chữ Vạn”, hoặc “Bánh xe luân hồi” hoặc “Bàn tay đỡ Bánh xe Luân hồi”. Cổng Tam quan có mái cong và đại tự có tên chùa, ở đây chính là biểu tượng của Phật, Pháp, Tăng.
Trải qua những bước thăng trầm của lịch sử, Phật giáo Việt Nam đã luôn luôn đồng hành cùng dân tộc, từ thời Phật giáo hưng thịnh (thời nhà Lý) cho đến ngày nay đã được quá ngàn năm. Với chiều dài lịch sử như vậy, Phật giáo Việt Nam có những hưng thịnh hoặc suy vi qua các thời đại. Song, văn hóa Phật giáo vẫn xuyên suốt quá trình lịch sử một cách liên tục tạo nên một dòng chảy như “mạch ngầm” thấm sâu vào lòng dân tộc. Để từ đó, tạo ra một nền tảng về giá trị tinh thần và hình thành nên các “khuôn mẫu văn hóa” đạo đức giúp cho con người ứng xử với nhau một cách hòa đồng theo tinh thần “Lục hòa” của Phật giáo khiến cho xã hội bớt đi những mâu thuẫn, gây nên những đấu tranh không bao giờ chấm dứt. Ngoài ra, nó còn được xem như một ”nội lực” tự sinh của cộng đồng, kháng lại mọi  nền văn hóa muốn “xâm thực” nền văn hóa bản địa. Đồng thời, nó tạo nên “bản sắc” riêng của nền văn hóa dân tộc. Như vậy, Phật giáo đã góp phần làm cho kho tàng văn hóa Việt Nam ngày càng phong phú và có giá trị về mặt tư tưởng. Nó cùng với Khổng giáo, Đạo giáo làm nên một tinh thần “Tam giáo đồng nguyên” mà Phật giáo là chủ đạo. Phật giáo trở thành một trong những hệ tư tưởng chủ đạo trong Văn hóa Việt Nam. Nó được thấm đẫm trong các lĩnh vực văn hóa gian gian, văn học nghệ thuật, để tạo nên một sắc thái rất riêng trong nền văn hóa Việt Nam. Nhờ vậy, mà người Việt Nam luôn luôn hiếu hòa không hiếu chiến, yêu chuộng hòa bình và  luôn có tư tưởng “vị tha” ngay với kẻ thù. Mà hình ảnh vua Lê trả gươm cho thần Kim Quy là một minh chứng. Và cho đến ngày hôm nay, thành phố Hà Nội được vinh danh là “Thành phố vì hòa bình. Một thành phố luôn luôn muốn hòa nhập với mọi nền văn hóa khác, song vẫn giữ được bản lĩnh của mình, đó là nền văn hóa luôn luôn thống nhất trong đa dạng, có tiếp biến, đồng thời có hội nhập trong thời kỳ toàn cầu hóa, công nghiệp hóa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Mọi hoạt động về phật sự của Phật giáo luôn luôn xuất phát từ lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc và cuộc sống nhân sinh. Vì sự tiến bộ của xã hội, Phật giáo luôn góp phần vào việc chấn hưng đất nước, an sinh và đấu tranh cho một dân tộc vì hòa bình và sự thịnh vượng, cho một đất nước thống nhất, độc lập và tự do.
Thăng Long – Hà Nội với truyền thống dũng cảm và anh hùng, biết phát huy toàn bộ sức mạnh của toàn dân để làm nên những kỳ tích hào hùng trong quá trình dựng nước và giữ nước và cả trong công cuộc đổi mới đất nước, cũng như trong những lĩnh vực ngoại giao và phát triển kinh tế. Chính vì vậy, Chủ tịch nước trong bài phát biểu của mình nhân dịp Đại lễ sáng 10/10/2010 đã nói: “Cách đây tròn 1.000 năm, vào mùa thu năm 1010, tiếp nối sự nghiệp dựng nước của các vua Hùng, các bậc tiên liệt, Đức Thái Tổ Lý Công Uẩn với tầm nhìn chiến lược đã quyết định dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, mở ra thời kỳ phát triển huy hoàng của kinh đô quốc gia Đại Việt. Từ mốc son lịch sử đó đến thời đại Hồ Chí Minh quang vinh, trải qua 1.000 năm với biết bao thăng trầm, Thăng Long - Hà Nội vẫn tư thế vững vàng, khí phách hiên ngang, xứng đáng là trái tim của cả nước, để hôm nay cả dân tộc trùng phùng. Việt Nam là một dân tộc anh hùng! Và Hà Nội là một thủ đô anh hùng của Việt Nam!”
Tóm lại, Đạo Phật và Văn hóa Việt Nam đã hòa nhập với nhau là một. Trong Văn hóa Việt Nam có tinh thần Phật giáo, trong lòng Phật giáo đã có Văn hóa dân tộc. Sự kết hợp này mang tinh thần biện chứng của Triết học Phương Đông và nó đã tạo nên một sức mạnh tinh thần cho cả cộng đồng dân tộc - Việt Nam. Đồng thời, nó còn làm nên một bản sắc riêng của một thủ đô Hà Nội nghìn năm Văn hiến. Hà Nội chính là biểu tượng của hòa bình, là tình yêu của  tự do và là phẩm giá của con người. Hà Nội còn là tấm gương của sự đấu tranh giành độc lập dân tộc, yêu chuộng hòa bình, xóa bỏ đói nghèo và trở thành tấm gương tiêu biểu của một nước tuy triền miên chiến tranh nhưng đứng lên có được độc lập dân tộc và sánh vai với năm châu bốn biển.
 

ThS. Nguyễn Như Hảo

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Từ khóa: văn hóa

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

Trang chủ  |  Giới thiệu  |  Tin tức sự kiện |  Thông báo  |  Văn bản pháp Luật  |  Cư sĩ Phật tử  |  Gia đình Phật tử  |  Tìm hiểu Phật giáo  |  Pháp âm  |  Đời sống  |  Từ thiện |  Gửi bài viết
______________________________________________________________________________________________________________________________________________

Quý vị vui lòng ghi rõ nguồn Phattu.vn khi phát hành lại nội dung từ trang web này