Ý nghĩa và Nghi thức cúng ngày Vu Lan - Phật Giáo Việt Nam
23:37 +07 Thứ sáu, 10/05/2024

Ý nghĩa và Nghi thức cúng ngày Vu Lan

Thứ tư - 29/08/2012 10:07
(HDPT) - Vu Lan đã trở thành ngày lễ “Báo hiếu”. Điều này hoàn toàn phù hợp với tư tưởng Phật giáo trong việc coi trọng “Tứ Ân” (ơn cha mẹ, ơn tổ quốc, ơn chúng sinh và ơn Tam Bảo). Đây cũng chính là nét giao thoa của Phật giáo với nền văn hóa Việt.
 

 

Ý NGHĨA CỦA LỄ VU LAN

Lễ Vu Lan được truyền từ Ấn Độ vào Trung Hoa. Lần đầu được tổ chức vào đêm rằm tháng bảy năm 768 ở Trường An trung tâm kinh đô đời nhà Đường. Lễ này được phổ biến sang các nước châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản, và vào Việt Nam khoảng năm 1402. Sau đó lễ Vu Lan được thịnh hành vào thời nhà Trần qua việc tổ chức các trai đàn chấn tế, nghĩa là bố thí thức ăn cho loài quỷ đói.

Lễ Vu Lan đã được tạo dựng từ truyền thuyết về Mục Kiền Liên, một trong mười đại đệ tử của Đức Phật, người có nhiều khả năng biến hóa thần thông. Một hôm Mục Kiền Liên triển khai huệ nhãn thì thấy mẹ mình là bà Thanh Đế đang bị đày ở địa ngục vì trong tiền kiếp đã gây nhiều nghiệp ác. Mục Kiền Liên vì muốn báo hiếu mẹ nên đã dùng thần thông xuống địa ngục để cứu mẹ. Nhưng không đạt được mục đích dù ngài là bậc A La Hán, Ngài bèn nhờ đến Đức Phật giúp đỡ. Đức Phật mới nói với ngài rằng chỉ có thể phối hợp tất cả nỗ lực của tất cả chư tăng mới có thể cứu thoát được mẹ. Ðức Phật dạy cho Mục Kiền Liên tổ chức cúng dường các tăng ni sau ngày an cư kiết hạ vào ngày rằm tháng bảy để cùng làm lễ cứu giúp cho mẹ ngài. 

 

 
 

 

 

Kết hợp với truyền thống văn hóa dân gian là tập tục thờ cúng tổ tiên nên trong lễ Vu Lan người ta cúng đồ ăn như cháo, bánh, hoa quả, quần áo và cả các vật dụng khác làm bằng giấy. Ca dao Việt Nam cũng có câu: 
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con

Vì thế lễ Vu Lan cũng là dịp để cho con cháu thực hiện đạo hiếu đối với cha mẹ không chỉ những người đã khuất, ông bà tổ tiên, mà còn có trách nhiệm với các bậc cha mẹ đang còn sống: 
Trẻ cậy cha, già cậy con

Vu Lan đã trở thành ngày lễ “Báo hiếu”. Điều này hoàn toàn phù hợp với tư tưởng Phật giáo trong việc coi trọng “Tứ Ân” (ơn cha mẹ, ơn tổ quốc, ơn chúng sinh và ơn Tam Bảo). Đây cũng chính là nét giao thoa của Phật giáo với nền văn hóa Việt.

Không những thế, về sau trong ngày Vu Lan người ta còn hướng tới việc tri ân các chiến sỹ đã hy sinh trong trận mạc, bảo vệ quê hương Tổ quốc, và còn chia sẻ với những vong hồn chết bất đắc kỳ tử hoặc không có người thân cúng viếng. Vu Lan lại được người Việt phát triển thành ngày lễ cúng cô hồn với tên gọi là ngày “xá tội vong nhân”.

Trong khi hành lễ để cứu mẹ Mục Kiền Liên, có nơi đã thực hiện nghi thức “phá ngục”, do đó mà một số chúng sinh cũng được thoát khỏi khổ nạn, đây coi như họ được xá tội cùng với bà Thanh Đế.

Về mặt hình thức thì Vu Lan là lễ cúng cô hồn nhưng nội dung thì Vu Lan là một dịp thuyết pháp cho chúng sinh Quy y Tam Bảo. Tam Bảo là Phật Pháp Tăng mà mọi đệ tử nương nhờ (y theo) vào đó để tu tập nhằm quay về Tâm Phật của bản thân mình mà soi sáng để hướng tới cứu cánh là đạt Giác ngộ và Giải thoát khỏi Khổ. Vì theo giáo lý thì mọi khổ nạn đều do Vô minh, vì tham sân si mà tạo nghiệp và vì vậy mà chúng sinh phải lăn lộn trong vòng luân hồi Sinh Tử với quy luật Nhân quả do Vô minh tạo ra. Khi nhận biết được nguyên nhân là Vô minh thì loại bỏ nó và mọi hậu quả sẽ không còn – thoát vòng luân hồi, thoát khỏi Khổ, trở về với Niết bàn. “Mọi chúng sinh đều là Phật” và “Phật tại Tâm”. Mỗi khi Tâm tĩnh lặng, ta phát huy được nội lục của Tâm thì đạt Tuệ (sự sáng suốt) và nhận biết được sự Vô minh của mình để loại bỏ Nghiệp mà thoát ra khỏi vòng sinh tử.

Qua Vu Lan Đức Phật muốn dạy cho chúng ta những bài học về điều cơ bản của Phật Pháp để thoát Khổ: 
1. Không thể dùng thần thông mà giải thoát được kể cả cho bản thân và cho bất kỳ ai, qua việc Mục Kiền Liên không thể cứu được mẹ mình mặc dù có khai triển thần thông cao đến đâu.

2. Không có một đấng siêu nhân nào có thể cứu được mình ngoài bản thân mình. Muốn thoát khổ thì chỉ có bản thân mình tự cứu mình nhờ sự trợ giúp của Tam Bảo bằng cách soi xét lại mọi nghiệp chướng do mình gây ra, sám hối và loại bỏ vô minh.

Ý nghĩa của Vu Lan mà Đức Phật muốn dạy là sau kỳ kiết hạ mọi chư tăng đều đã thu thập được nhiều tâm lực. Tâm lực ở đây có thể hiểu như một dạng năng lượng tinh thần (ý thức) được tập trung cao độ nhờ thiền định trong ba tháng kiết hạ. Nhờ lực lượng này mà có thể giúp bà Thanh Đế thay đổi tâm sai trái độc ác trước đây, đế chuyển hóa thành tâm thiện, tự thoát khổ.

Giáo lý Phật thường có vô lượng nghĩa để đáp ứng với vô lượng tâm của chúng sinh nhằm mục đích “độ tùy duyên”. Vu Lan là một trong những phương tiện thiện xảo của Đức Phật để dạy cho chúng sinh phép cúng dường chư Tăng và tạo cho các phật tử có duyên lành gieo trồng nhân thiện, trợ giúp chư Tăng tu tập chính quả nhằm cứu độ mọi chúng sinh thoát khỏi vòng luân hồi sinh lão bệnh tử. Đồng thời đây cũng là dịp giáo dục Đạo Hiếu giúp cho các thế hệ con cháu biết nhớ tới công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, ông bà tổ tiên, cũng như biết tri ân các bậc tiền nhân đã hy sinh dựng xây Đất nước ngàn đời, mà thế hệ trẻ ngày nay cần phải có trách nhiệm gìn giữ non sông và bảo vệ chủ quyền Đất nước trọn vẹn. Và nhân ngày Vu Lan chúng ta có thể bày tỏ thái độ của mình trong việc giữ gìn thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống trên Trái Đất: "Be Veg, Go Green, save our Planet" (Ăn chay, hành trình xanh, cứu hộ Hành tinh của chúng ta)

Tác giả: Quang Lâm

PHẦN HÀNH LỄ:

  1. THIỀN HÀNH (10 phút, sau khi được hướng dẫn)
  2. THIỀN TỌA (10 phút, sau khi được hướng dẫn)

     

    (Thắp ba cây hương, quỳ ngay thẳng, cầm hương ngang trán niệm bài cúng hương).

     

  3. CÚNG HƯƠNG

     

    Nguyện đem lòng thành kính,
    Gởi theo đám mây hương,
    Phưởng phất khắp mười phương,
    Cúng dường ngôi Tam Bảo,
    Thề trọn đời giữ đạo,
    Theo tự tánh làm lành,
    Cùng pháp giới chúng sanh,
    Cầu Phật từ gia hộ:,
    Tâm Bồ đề kiên cố,
    Xa bể khổ nguồn mê,
    Chóng quay về bờ giác.

     

    (Xá 3 xá rồi đọc bài kỳ nguyện)

  4. KỲ NGUYỆN

    Nay chính là ngày chư Tăng mãn hạ, đem đức lành phổ hóa chúng sanh. Chúng con một dạ kính thành, cúng dường, trì tụng đem công đức này, nguyện khắp mười phương ba ngôi Tam Bảo, Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đức Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, cùng các vị Bồ Tát, tịnh đức chúng Tăng, từ bi gia hộ, cho Cửu Huyền Thất Tổ, cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp của đệ tử, cùng tất cả chúng sanh sớm rõ đường lành, thoát vòng mê muội, ra khỏi u đồ, siêu sanh Lạc quốc. Ngưỡng mong oai đức vô cùng, xót thương tiếp độ.

     

    Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo. (3 lần

     

    (Ðứng dậy cấm hướng vào lư rồi chắp tay đứng thẳng và niệm lớn)

  5. TÁN PHẬT

     

    Đấng Pháp Vương vô thượng
    Ba cõi chẳng ai bằng
    Thầy dạy khắp trời người
    Cha lành chung bốn loại
    Quy y tròn một niệm
    Dứt sạch nghiệp ba kỳ
    Xưng dương cùng tán thán
    Ức kiếp không cùng tận.

     

  6. QUÁN TƯỞNG

     

    Phật Chúng sanh tánh thường rỗng lặng,
    Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
    Lưới đế châu ví đạo tràng,
    Mười phương Phật bảo hào quang sáng người,
    Trước bảo tọa thân con ảnh hiện,
    Cúi đầu xin pháp nguyện quy y. (xá 3 xá rồi xướng lạy)

     

  7. ĐẢNH LỄ

     

    Chí tâm đảnh lễ:Nam mô Tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, Thường trú Tam Bảo. (1 lạy)

     

     

    Chí tâm đảnh lễ:Nam mô Ta bà Giáo chủ Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ðương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Ðại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Ðại hạnh Phổ Hiền Bồ tát, Hộ Pháp Chư tôn Bồ tát, Linh sơn hội thượng Phật Bồ tát. (1 lạy)

     

     

    Chí tâm đảnh lễ:Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới Ðại từ Ðại bi A Di Ðà Phật, Ðại bi Quán Thế AÂm Bồ tát, Ðại Thế Chí Bồ tát, Ðại nguyện Ðịa Tạng Vương Bồ tát, Thanh tịnh Ðại hải chúng Bồ tát. (1 lạy)

     

     

    (Đứng hoặc ngồi tùy ý, vô chuông mõ, đồng tụng)

     

  8. TÁN LƯ HƯƠNG

     

    Kim lư vừ bén chiên đàn,
    Khắp xông pháp giới đạo tràng mười phương.
    Hiện thành mây báu kiết tường,
    Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiền,
    Pháp thân toàn thể hiện tiền,
    Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho.

    Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)

     

  9. CHÚ ÐẠI BI

     

    Nam mô Ðại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)

     

     

    Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.

     

     

    Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.

     

     

    Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa.

     

     

    Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.

     

     

    Nam mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.

     

     

    Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. 

    Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha. 

    Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)

    Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)

     

  10. KHAI KINH KỆ

     

    Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
    Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ,
    Ngã kim kiến văn đắc thọ trì,
    Nguyện giải Như Lai chơn thiệt nghĩa.

    Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát (3 lần)

     

  11. PHẬT NÓI: KINH VU LAN BỒN

    TA TỪNG NGHE LỜI TẠC NHƯ VẦY:

     

    Một thuở nọ Thế Tôn an trụ,
    Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung,
    Mục Liên mới đặng lục thông,
    Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
    Công dưỡng dục thâm ân dốc trả,
    Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền,
    Làm con hiếu hạnh vi tiên,
    Bèn dùng huệ nhãn dưới trên kiếm tầm.
    Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỉ,
    Không uống ăn tiều tụy hình hài.
    Mục Liên thấy vậy bi ai,
    Biết mẹ đói khát ai hoài tình thâm.
    Lo phẩm vậy đem dâng từ mẫu,
    Ðặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu.
    Thấy cơm, mẹ rất lo âu,
    Tay tả che đậy, hữu hầu bốc ăn.
    Lòng bỏn xẻn tiền căn chưa dứt,
    Sợ chúng ma cướp giựt của bà.
    Cơm đưa chưa tới miệng đà,
    Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu,
    Thấy như vậy âu sầu thê thảm,
    Mục Kiền Liên bi cảm xót thương,
    Mau mau về đến giảng đường,
    Bạch cùng Sư phụ tìm phương giải nàn.
    Phật mới bảo rõ ràng căn cội,
    Rằng mẹ ông gốc tội rất sâu.
    Dầu ông thần lực nhiệm mầu,
    Một mình không thể ai cầu được đâu.
    Lòng hiếu thảo của ông dầu lớn,
    Tiếng vang đồn thấu đến Cửu Thiên.
    Cùng là các bực Thần kỳ,
    Tà, ma ngoại đạo, bốn vì Thiên Vương,
    Cộng ba cõi sáu phương tu tập,
    Cũng không phương cứu tế mẹ ngươi.
    Muốn cho cứu đặng mạng người.
    Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng.
    Pháp cứu tế Ta toan giải nói,
    Cho mọi người thoát khỏi ách nàn,
    Bèn kêu Mục thị đến gần,
    Truyền cho diệu pháp ân cần thiết thi,
    Rằm tháng bảy là ngày Tự tứ,
    Mười phương Tăng đều dự lễ này,
    Phải toan sắm sửa chớ chầy,
    Thức ăn trăm món trái cây năm màu.
    Lại phải sắm giường nằm nệm lót,
    Cùng thau, bồn, đèn, đuốc, nhang, dầu,
    Món ăn tinh sạch báu mầu,
    Ðựng trong bình bát vọng cầu kính dâng,
    Chư Ðại đức mười phương thọ thực,
    Trong bảy đời sẽ đặng siêu thăng.
    Lại thêm cha mẹ hiện tiền,
    Ðặng nhờ phước lực tiêu khiên ách nàn.
    Vì ngày ấy Thánh tăng đều đủ,
    Dầu ở đâu cũng tụ hội về.
    Như người Thiền định Sơn khê,
    Tránh điều phiền não chăm về thiền na,
    Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả,
    Công tu hành nguyện thỏa vô Sanh,
    Hoặc người thọ hạ kinh hành,
    Chẳng ham quyền quí ẩn danh lâm tòng,
    Hoặc người đặng lục thông tấn phát,
    Và những hàng Duyên giác, Thanh văn,
    Hoặc chư Bồ tát mười phương,
    Hiện hình làm sãi ở gần chúng sanh,
    Ðều trì giới rất thanh, rất tịnh,
    Ðạo đức dầy chánh định chơn tâm,
    Tất cả các bực Thánh, Phàm,
    Ðồng lòng thọ lãnh bát cơm lục hòa,
    Người nào có sắm ra vật thực,
    Ðặng cúng dường Tự tứ Tăng thời,
    Hiện tiền phụ mẫu của người,
    Bà con quyến thuộc thảy đều nhờ ơn,
    Tam đồ khổ chắc rằng ra khỏi,
    Cảnh thanh nhàn hưởng thọ tự nhiên.
    Như còn cha mẹ hiện tiền.
    Nhờ đó cũng đặng bá niên thọ trường,
    Như cha mẹ bảy đời quá vãng,
    Sẽ hóa sanh về cõi thiên cung,
    Người thời tuấn tú hình dung,
    Hào quang chiếu sáng khắp cùng châu thân,
    Phật dạy bảo mười phương Tăng chúng,
    Phải tuân theo thể thức sau nầy:
    Trước khi thọ thực đàn chay,
    Phải cầu chú nguyện cho người tín gia.
    Cầu thất thế mẹ cha thí chủ,
    Ðịnh tâm thần quán đủ đừng quên,
    Cho xong định ý hành thiền,
    Mới dùng phẩm vật đàn tiền hiến dâng.
    Khi thọ dụng, nên an vật thực,
    Trước Phật đài hoặc tự tháp trung:
    Chư Tăng chú nguyện viên dung,
    Sau rồi tự tiện thọ dùng bữa trưa,
    Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt,
    Mục Liên cùng Bồ tát chư Tăng,
    Ðồng nhau tỏ dạ vui mừng,
    Mục Liên cũng hết khóc thương rầu buồn,
    Mục Liên Mẫu cũng trong ngày ấy,
    Kiếp khổ về ngạ qủy được tan,
    Mục Liên bạch với Phật rằng:
    Mẹ con nhờ sức Thánh Tăng khỏi nàn
    , Lại cũng nhờ oai thần Tam Bảo,
    Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra
    Như sau đệ tử xuất gia,
    Vu Lan Bồn pháp dùng mà độ sanh.
    Ðộ cha mẹ còn đương tại thế,
    Hoặc bảy đời có thể đặng không?
    Phật rằng: lời hỏi rất thông,
    Ta vừa muốn nói con vùng hỏi theo,
    Thiện nam tử, tỳ kheo nam nữ,
    Cùng Quốc vương, Thái tử, Ðại thần,
    Tam công, tể tướng, bá quan,
    Cùng hàng lê thứ vạn dân cõi trần,
    Như chí muốn đền ơn cha mẹ,
    Hiện tại cùng thất thế tình thâm,
    Ðến rằm tháng bảy mỗi năm,
    Sau khi kiết hạ chư Tăng tựu về,
    Chính ngày ấy Phật, đã hoan hỷ,
    Phải sắm sanh bá vị cơm canh,
    Ðựng trong bình bát tinh anh,
    Chờ giờ Tự tứ chúng Tăng cúng dường,
    Ðặng cầu nguyện song đường trường thọ, 
    Chẳng ốm đau cũng chẳng khổ chi,
    Cùng cầu thất thế đồng thì,
    Lìa nơi ngạ qủy sanh về nhơn, thiên,
    Ðặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp.
    Lại xa lìa nạn khổ cực thân,
    Môn sanh Phật tử ân cần,
    Hạnh tu hiếu thuận phải cần phải chuyên.
    Thường cầu nguyện thung huyên an hảo,
    Cùng bảy đời phụ mẫu siêu sanh
    Ngày rằm tháng bảy mỗi năm,
    Vì lòng hiếu thảo ơn thâm phải đền.
    Lễ cứu tế chí thành sắp đặt,
    Ngõ cúng dường chư Phật chư Tăng.
    Ấy là báo đáp, thù ân,
    Sanh thành dưỡng dục song thân buổi đầu,
    Ðệ tử Phật, lo âu gìn giữ,
    Mới phải là Thích tử Thiền môn,
    Vừa nghe dứt pháp Lan Bồn,
    Môn sanh tứ chúng thảy đồng hỷ hoan,
    Mục Liên với bốn ban Phật tử,
    Nguyện một lòng tín sự phụng hành,
    Trước là trả nghĩa sanh thành, 
    Sau là cứu vớt chúng sanh muôn loài.

    Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát (3 lần)

     

  12. PHẬT NÓI: KINH BÁO ĐÁP CÔNG ƠN CHA MẸ DIỄN NGHĨA

    TA TỪNG NGHE LỜI TẠC NHƯ VẦY:

     

    Một thuở nọ Thế Tôn an trụ
    Xá vệ thành kỳ thụ Viên trung
    Chư Tăng câu hội rất đông
    Tính ra Tới số hai muôn tám ngàn
    Lại cũng có các hàng Bồ tát
    Hội tại đây đủ mặt thường thường
    Bây giờ Phật lại lên đường
    Cùng hàng đại chúng Nam phương tiến hành
    Ðáo bán lộ rành rành mắt thấy
    Núi xương khô bỏ đấy lâu đời
    Thế Tôn bèn vội đến nơi
    Lạy liền ba lạy rồi rơi giọt hồng
    Ðức A Nan tủi lòng ái ngại
    Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương,
    Vội vàng xin Phật dạy tường:
    "...Thầy là Từ phụ ba phương bốn loài
    Ai ai cũng kính thầy dường ấy
    Cớ sao thầy lại lạy xương khô?"
    Phật rằng: Trong các môn đồ
    Ngươi là đệ tử đứng đầu dày công.
    Bởi chưa rõ đục trong cho rõ,
    Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu:
    Ðống xương dồn dập bấy lâu,
    Cho nên trong đó biết bao cốt hài.
    Chắc cũng có ông bà cha mẹ,
    Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sanh,
    Luân hồi sanh tử, tử sanh,
    Lục thân đời trước thi hài còn đây.
    Ta lễ bái kính người tiền bối,
    Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa.
    Ðống xương hỗn tạp chẳng vừa,
    Không phân trai gái bỏ bừa khó coi.
    Ngươi chịu khó xét soi cho kỹ,
    Phân làm hai bên nữ bên nam,
    Ðể cho phân biệt cốt phàm,
    Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng.
    Ðức A Nan trong lòng tha thiết,
    Biết làm sao phân biệt khỏi sai,
    Ngài bèn xin Phật chỉ bày,
    Vì khó chọn lựa gái trai lúc này.
    Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt,
    Cách đứng đi ăn mặc phân minh,
    Chớ khi rã xác tiêu hình,
    Xương ai như nấy khó nhìn khó phân.
    Phật mới bảo A Nan nên biết,
    Xương nữ nam phân biệt rõ ràng,
    Ðàn ông xương trắng nặng quằn,
    Ðàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn.
    Ngươi có biết cớ chi đen nhẹ?
    Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra,
    Sanh con ba đấu huyết ra,
    Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con.
    Vì cớ ấy hao mòn thân thể,
    Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai.
    A Nan nghe vậy bi ai,
    Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh.
    Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo,
    Phương pháp nào báo hiếu song thân?
    Thế Tôn mới bảo lời rằng:
    Vì người ta sẽ phân trần khá nghe:
    Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc,
    Sanh đặng con thập ngoạt cưu mang,
    Tháng đầu thai đậu tợ sương,
    Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường.
    Tháng thứ nhì dường như sữa đặc,
    Tháng thứ ba như cục huyết ngưng,
    Bốn tháng đã tượng ra hình,
    Năm tháng ngũ thể hiện sinh rõ ràng.
    Tháng thứ sáu lục căn đều đủ,
    Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương,
    Lại thêm đủ lỗ chân lông,
    Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn.
    Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ,
    Chín tháng thì đầy đủ vóc hình,
    Mười tháng thì đến kỳ sinh.
    Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn.
    Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu.
    Nó vẫy vùng đạp quấu lung tung,
    Làm cho cha mẹ hãi hùng,
    Sự đau sự khổ không cùng tỏ phân.
    Khi sản xuất muôn phần an lạc,
    Cũng ví như được bạc được vàng.
    Thế Tôn lại bảo A Nan:
    Ơn cha nghĩa mẹ mười Phần phải tin.
    Ðiều thứ nhứt giữ gìn thai giáo,
    Mười tháng trường châu đáo mọi bề.
    Thứ hai sanh đẻ gớm ghê,
    Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần.
    Ðiều thứ ba thâm ân nuôi dưỡng,
    Cực đến đâu bền vững chẳng lay.
    Thứ tư ăn đắng uống cay,
    Ðể dành bùi ngọt đủ đầy cho con.
    Ðiều thứ năm lại còn khi ngủ,
    Ướt mẹ nằm khô ráo phần con.
    Thứ sáu sú nước nhai cơm,
    Miễn con no ấm chẳng nhờm chẳng ghê.
    Ðiều thứ bảy không chê ô uế,
    Giặt đồ dơ của trẻ không phiền.
    Thứ tám chẳng nỡ chia riêng,
    Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo.
    Ðiều thứ chín miễn con sung sướng,
    Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam,
    Tính sao có lợi thì làm,
    Chẳng màng tội lỗi bị giam bị cầm.
    Ðiều thứ mười chẳng ham trau chuốt,
    Dành cho con các cuộc thanh nhàn,
    Thương con như ngọc như vàng,
    Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng thái sơn.
    Phật lại bảo A Nan nên biết:
    Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người,
    Mười phần mê muội cả mười,
    Không tường ơn trọng đức dày song thân.
    Chẳng kính mến quên ơn trái đức,
    Không xót thương dưỡng dục cù lao,
    Ấy là báo hiếu mặc giao,
    Ví những người ấy đời nào nên thân.
    Mẹ sanh con cưu mang mười tháng,
    Cực khổ dường gánh nặng trên vai,
    Uống ăn chẳng đặng vì thai.
    Cho nên thân thể hình hài kém suy.
    Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết,
    Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề,
    Ví như thọc huyết trâu dê,
    Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan.
    Con còn nhỏ phải lo săn sóc,
    Ăn đắng cay bùi ngọt phần con,
    Phải tắm phải giặt rửa trôn,
    Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì.
    Nằm phía ướt con nằm phía ráo,
    Sợ cho con ướt áo ướt chăn,
    Hoặc khi ghẻ chóc khắp thân,
    Aét con phải chịu trăm phần thảm thương.
    Trọn ba năm bú nương sữa mẹ,
    Thân gầy mòn nào nệ với con,
    Khi con vừa được lớn khôn,
    Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng,
    Cho đi học mở thông trí tuệ,
    Dựng vợ chồng có thể làm ăn,
    Ước mong con được nên thân,
    Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi.
    Con đau ốm tức thì lo chạy,
    Dầu tốn hao đến mấy cũng đành,
    Khi con căn bệnh đặng lành,
    Thì cha mẹ mới an thần định tâm.
    Công dưỡng dục sánh bằng non biển,
    Cớ sao con chẳng biết ơn này!
    Hoặc khi lầm lỗi bị rầy,
    Chẳng tuân thì chớ lại bày ngỗ ngang.
    Hỗn cha mẹ phùng mang trợn mắt, 
    Khinh trưởng huynh nộ nạt thê nhi,
    Bà con chẳng kể ra chi,
    Không tuân sư phụ lễ nghi chăng tường.
    Lời dạy bảo song đường không kể,
    Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng.
    Trái ngang chống báng mọi đàng,
    Ra vào lui tới mắng càn người trên.
    Vì lỗ mãng tánh quen làm bướng,
    Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn,
    Lớn lên theo thói hung hăng,
    Ðã không nhẫn nhịn lại càng hành hung.
    Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ,
    Nết tập quen làm sự trái ngang,
    Nghe lời dụ dỗ quân hoang,
    Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người,
    Trước còn tập theo thời theo thế,
    Thân lập thân tìm kế sanh nhai ,
    Hoặc đi buôn bán kiếm lời,
    Hoặc vào quân lính với đời lập công.
    Vì ràng buộc đồn công mối nợ,
    Hoặc trở ngăn vì nợ vì con,
    Quên cha quên mẹ tình thâm,
    Quên xứ quên sở lâu năm không về.
    Ấy là nói những người có chí,
    Chớ phần nhiều du hí mà thôi,
    Sau khi phá hết của rồi,
    Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài.
    Theo trộm cướp hoặc là bài bạc,
    Phạm tội hình tù rạc phải vương ,
    Hoặc khi mang bịnh giữa đường,
    Không!người nuôi dưỡng bỏ thân ngoài đồng.
    Hay tin dữ bà con cô bác,
    Cùng mẹ cha xao xác buồn rầu,
    Thương con than khóc âu sầu,
    Có khi mang bịnh đui mù vấn vương.
    Hoặc bịnh nặng vì thương quá lẽ,
    Phải bỏ mình làm quỉ giữ hồn,
    Hoặc nghe con chẳng lo lường,
    Trà đình tửu điếm phố phường ngao du.
    Cứ mải miết với đồng bất chính,
    Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khang,
    Làm cho cha mẹ than van,
    Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời.
    Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu,
    Không ai nuôi thiếu thốn mọi điều,
    Ốm đau đói rách kêu rêu,
    Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương.
    Phận con gái còn nương cha mẹ,
    Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa,
    Cần lao phục dịch trong nhà,
    Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi.
    Song đến lúc tùng phu xuất giá,
    Lo bên chồng chẳng sá bên mình,
    Trước còn lai vãng đến thăm,
    Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà.
    Quên dưỡng dục song thân ân trọng,
    Không nhớ công mang nặng đẻ đau,
    Chẳng lo báo bổ cù lao,
    Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay.
    Nếu cha mẹ la rầy quở mắng,
    Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng,
    Chớ chi chồng đánh liên miên,
    Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than.
    Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ,
    Nói không cùng nghiệp dữ phải mang,
    Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng,
    Trong hàng Ðại chúng lòng càng thảm thay!
    Gieo xuống đất lấy cây lấy củi,
    Ðập vào mình vào mũi vào hông,
    Làm cho các lỗ chân lông,
    Thảy đều rướm máu ướt đầm cả thân.
    Ðến hôn mê tâm thần bất định,
    Một giây lâu mới tỉnh than rằng:
    Bọn ta quả thật tội nhơn,
    Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù.
    Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc,
    Ruột gan dường như nát như tan,
    Tội tình khó nỗi than van,
    Làm sao trả đặng muôn ngàn ân sâu,
    Trước Phật tiền ai cầu trần tố,
    Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân,
    Làm sao báo đáp thù ân,
    Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình.
    Phật bèn dùng phạm thinh sáu món,
    Phân tỏ cùng Ðại chúng lóng nghe,
    Ơn cha nghĩa mẹ nặng nề,
    Không phương báo đáp cho vừa sức đâu.
    Ví có người ân sâu dốc trả,
    Cõng mẹ cha tất cả hai vai.
    Giáp vòng hòn núi Tu di,
    Ðến trăm ngàn kiếp ân kia chưa đền.
    Ví có người gặp cơn đói rét,
    Nuôi song thân dâng hết thân nầy,
    Xương nghiền thịt nát phân thây,
    Trải trăm ngàn kiếp ân đây chưa đồng.
    Ví có người vì công sanh dưỡng,
    Tự tay mình khoét thủng song ngươi,
    Chịu thân mù tối như vầy,
    Ðến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu.
    Ví có người cầm dao thiệt bén,
    Mổ bụng ra rút hết tâm can,
    Huyết ra khắp đất chẳng than,
    Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng.
    Ví có người dùng ngàn mũi nhọn,
    Ðâm vào mình bất luận chỗ nào,
    Tuy là sự khó biết bao,
    Trải trăm ngàn kiếp không sao đắp đền.
    Ví có người vì công dưỡng dục,
    Tự treo mình cúng Phật thế đèn,
    Cứ treo như vậy trọn năm,
    Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền.
    Ví có người xương nghiền ra mỡ,
    Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình,
    Xương tan thịt nát chẳng phiền,
    Ðến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng.
    Ví có người vì công dưỡng dục,
    Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan,
    Làm cho thân thể tiêu tan,
    Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền.
    Nghe Phật nói thảy đều kinh hãi,
    Giọt lệ tràng khó nổi cấm ngăn,
    Ðồng thanh bạch Phật lời rằng:
    Làm sao trả đặng ân thâm song đường?
    Phật mới bảo các hàng Phật tử,
    Phải lóng nghe ta chỉ sau này,
    Chúng ngươi muốn đáp ân dày,
    Phải toan biên chép kinh đây lưu truyền.
    Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng,
    Cùng ăn năn những tội lỗi xưa,
    Cúng dường Tam Bảo sớm trưa,
    Cùng là tu phước, chẳng chừa món chi.
    Rằm tháng bảy đến kỳ Tự tứ,
    Thập phương Tăng đều dự lễ này,
    Sắm sanh lễ vật đủ đầy,
    Chờ giờ cu hội đặt bày cúng dâng.
    Ðặng cầu nguyện song đường trường thọ,
    Hoặc sanh về Tịnh độ an nhàn,
    Ấy là báo đáp thù ân,
    Sanh thành dưỡng dục song thân của mình.
    Mình còn phải cần chuyên trì giới,
    Pháp Tam qui ngũ giới giữ gìn,
    Những lời ta dạy đinh ninh,
    Khá nên y thử phụng hành đừng sai.
    Ðược như vậy mới là khỏi tội,
    Bằng chẳng thì ngục tối phải sa,
    Trong năm đại tội kể ra,
    Bất hiếu thứ nhất thật là trọng thay.
    Sau khi chết bị đầy vào ngục,
    Ngũ Vô Gián cũng gọi A tỳ,
    Ngục này trong núi Thiết Vi,
    Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề.
    Trong ngục này hàng ngày lửa cháy,
    Ðốt tội nhơn hết thảy thành than,
    Có lò nấu sắt cho tan,
    Rót vào trong miệng tội nhơn hành hình.
    Một vá đủ cho người thọ khổ,
    Lột thịt ra đau thấu tâm can,
    Lại có chó sắt rắn gang,
    Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn.
    Ở trong ngục có giường bằng sắt,
    Bắt tội nhơn nắm khắp đó xong,
    Rồi cho một ngọn lửa hồng,
    Nướng quây chúng nó da phồng thịt thau.
    Móc bằng sắt thương đao gươm giáo,
    Trên không trung đổ tháo như mưa,
    Gặp ai chém nấy chẳng chừa,
    Làm cho thân thể nát nhừ như tương.
    Những hình phạt vô phương kể hết,
    Mỗi ngục đều có cách trị riêng,
    Như là xe sắt phân thây,
    Chim ưng mổ bụng trâu cầy lưỡi le.
    Chớ chi đặng chết liền rất đỡ,
    Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân,
    Ngày đêm chết sống muôn lần.
    Ðến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây,
    Sự hành phạt tại A tỳ ngục,
    Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân,
    Chúng người đều phải ân cần,
    Thừa hành các việc phân trần khoản trên.
    Nhất là phải kinh này in chép,
    Truyền bá ra cho khắp đông tây,
    Như ai chép một quyển này,
    Ví bằng đặng thấy một vì Thế Tôn.
    Nếu in được ngàn muôn quyển ấy,
    Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên,
    Do theo nguyện lực tùy duyên,
    Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền.
    Cha mẹ đặng xa miền khốc lãnh.
    Lại hóa sanh về cảnh thiên cung,
    Khi lời Phật giảng vừa xong,
    Khắp trong Tứ chúng một lòng kính vâng.
    Lại phát nguyện thà thân này nát,
    Ra bụi tro muôn kiếp chẳng nài,
    Dầu cho kéo lưỡi trâu cày,
    Ðến trăm ngàn kiếp lời thầy không quên.
    Ví như bị đá thiên đao kiếm.
    Khắp thân nầy đâm chém phân thây,
    Hoặc như lưới trói thân này,
    Trải trăm ngàn kiếp lời thầy chẳng sai.
    Dẫu thân này bị cưa bị chặt,
    Phân chia ra muôn đoạn rã rời,
    Ðến trăm ngàn kiếp như vầy,
    Chúng con cũng chẳng trái lời thầy khuyên.
    Ðức A Nan kiền thiền đảnh lễ,
    Cầu Thế Tôn đặt để hiệu Kinh,
    Ngày sau truyền bá chúng sinh,
    Dễ bề phúng tụng trì chuyên tu hành.
    Phật mới bảo A Nan nên biết,
    Quyển kinh này quả thiệt cao xa,
    Ðặt tên "BÁO HIẾU MẸ CHA",
    Cùng là "ÂN TRỌNG" thật là chơn Kinh.
    Các ngươi phải giữ gìn châu đáo,
    Ðặng đời sau y giáo phụng hành,
    Sau khi Phật dạy rành rành,
    Bốn hàng Phật tử rất mừng rất vui.
    Thảy một lòng vâng theo lời Phật,
    Và kính thành tin chắc vẹn tuyền,
    Ðồng nhau tựu tại Phật tiền,
    Nhứt tâm đảnh lễ rồi liền lui ra.

    Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát (3 lần)

     

  13. MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ÐA TÂM KINH

     

    Quán tự tại Bồ tát, hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

     

     

    Xá Lợi Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.

     

     

    Xá Lợi Tử ! Thị chư Pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh diệc, vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.

     

     

    Dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề tát đỏa y Bát nhã ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn. Tam thế chư Phật, y Bát nhã ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

     

     

    Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.

     

     

    Cố thuyết Bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:

     

     

    Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha. (3 lần)

     

  14. VÃNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHƠN NGÔN

     

    Nam mô a di đa bà dạ. 
    Đa tha dà đa dạ. Đa điệt dạ tha.
    A di rị đô bà tỳ.
    A di rị đa, tất đam bà tỳ.
    A di rị đa, tỳ ca lan đế. 
    A di rị đa, tỳ ca lan đa.
    Dà di nị dà dà na. 
    Chỉ đa ca lệ, ta bà ha. (3 lần)

     

  15. TÁN PHẬT

     

    A Di Ðà Phật thân kim sắc,
    Tướng hảo quang minh vô đẳng luân,
    Bạch hào uyển chuyển ngũ tu di,
    Hám mục trừng thanh tứ đại hải,
    Quang trung hóa Phật vô số ức,
    Hóa Bồ tát chúng diệc vô biên,
    Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh,
    Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
    Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới, đại từ đại bi, A Di Ðà Phật.
    Nam mô A Di Ðà Phật. (108 lần)
    Nam mô Ðại bi Quán thế âm Bồ tát. (3 lần)
    Nam mô Ðại Thế Chí Bồ tát. (3 lần)
    Nam mô Ðịa Tạng Vương Bồ tát. (3 lần)
    Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát (3 lần)
    Nam mô Thanh tịnh Ðại Hải chúng Bồ tát. (3 lần)

     

  16. SÁM VU LAN

     

    Ðệ tử chúng con,
    Vâng lời Phật dạy,
    Ngày rằm tháng bảy,
    Gặp Hội Vu Lan,
    Phạm Vũ huy hoàng,
    Ðốt hương đảnh lễ.
    Mười phương Tam thế,
    Phật, Pháp, Thánh, Hiền,
    Noi gương Ðức Mục Kiền Liên,
    Nguyện làm con thảo, 
    Lòng càng áo não,
    Nhớ nghĩa thân sanh,
    Con đến trưởng thành,
    Mẹ dày gian khổ,
    Ba năm nhũ bộ,
    Chín tháng cưu mang,
    Không ngớt lo toan,
    Quên ăn bỏ ngủ,
    Ấm no đầy đủ,
    Cậy có công cha,
    Chẳng quản yếu già,
    Sanh nhai lam lũ,
    Quyết cùng hoàn vũ,
    Phấn đấu nuôi con,
    Giáo dục vuông tròn,
    Ðem đường học đạo.
    Ðệ tử ơn sâu chưa báo,
    Hổ phận kém hèn.
    Giờ này quỳ trước đài sen,
    Chí thành cung kính,
    Ðạo tràng thanh tịnh,
    Tăng bảo trang nghiêm.
    Hoặc thừa tự tứ.
    Hoặc hiện tham thiền,
    Ðầy đủ thiện duyên,
    Dũ lòng lân mẫn,
    Hộ niệm cho:
    Bảy kiếp cha mẹ chúng con,
    Ðượm nhuần mưa Pháp,
    Còn tại thế, 
    Thân tâm an ổn,
    Phát nguyện tu trì,
    Ðã qua đời,
    Ác đạo xa lìa,
    Chóng thành Phật quả,
    Ngữa trông các Ðức Như Lai,
    Khắp cõi hư không,
    Từ bi gia hộ.

    Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát (3 lần)

     

  17. SÁM MỤC KIỀN LIÊN

     

    Con quỳ lạy Phật Thích Ca,
    Chứng minh đệ tử tên là Mục Liên,
    Lòng con mộ đạo tu hiền,
    Xuất gia theo Phật cầu nguyền hôm nay.
    Nghe kinh Phật thuyết bảy ngày,
    Minh tâm kiến tánh Như Lai trọn lành,
    Lục thông đầy đủ nên danh,
    Muốn tìm cha mẹ lòng thành gắng công.
    Ðền ơn cho bú ẵm bồng,
    Liền dùng đạo nhãn xem liền thế gian,
    Thấy vong mẹ khổ muôn vàn,
    Ốm gầy đói khát trong đàng quỷ ma.
    Mục Liên kêu mẹ khóc la,
    Ðau lòng thương mẹ đọa sa Diêm đình,
    Thanh Ðề nhìn thấy con mình,
    Mục Liên cứu mẹ hết tình gắng công.
    Con ơi! Mẹ đói trong lòng,
    Mục Liên nghe nói khóc ròng thở than,
    Vội vàng trở lại thế gian,
    Bới cơm một bát đem sang mẹ mừng.
    Và cơm vô miệng nửa chừng,
    Chén cơm hóa lửa phừng phừng thành than,
    Mục Liên xem thấy kinh hoàng,
    Trong lòng đau đớn khóc than buồn tình.
    Mẹ ơi! niệm Phật độ mình,
    Trở về lạy Phật cầu xin mẹ già,
    Thích Ca đức Phật phân qua,
    Mẹ ngươi tội nặng đọa ra nghiệp hành.
    Ta truyền cứu tế pháp lành,
    Cần cầu tăng chúng tịnh thanh chú nguyền
    Cầu cho phụ mẫu hiện tiền
    Lục thân quyến thuộc bình yên đều hòa.
    Bảy đời phụ mẫu đã qua,
    Về trời hưởng phước sáng lòa hào quang,
    Vui chơi thông thả thanh nhàn,
    Ngày rằm tháng bảy lập đàn trai Tăng.
    Sắm cơm trăm món đồ ăn,
    Trái cây ngũ quả hương đăng rõ ràng,
    Chiếu, giường, bồn nước, mùng, màn,
    Dầu, đường, trà lá, bát vàng đựng cơm.
    Những đồ vật quý bông thơm,
    Thành tâm dọn tiệc Lan Bồn phân minh,
    Cúng dường Tam bảo cầu kinh,
    Chư Tăng tịnh giới giữ gìn nghiêm trang.
    Cầu cho thí chủ trai đàn,
    Tâm hành thiền định vái van chúc nguyền,
    Thanh Ðề khổ ách hết liền,
    Ngày Rằm tháng Bảy thành Tiên về Trời.
    Noi gương hiếu thảo đời đời,
    Xót thương phụ mẫu hiện thời nuôi con,
    Nhai cơm cho bú hao mòn,
    Ơn sâu nghĩa nặng thương con hết lòng.
    Trời cao đất rộng mênh mông,
    Biển hồ lai láng sánh đồng Thái sơn.
    Tu hành báo tứ trọng ân,
    Ðộ đời ba cõi sạch trơn trọn lành.
    Mục Liên đại hiếu tu hành,
    Báo ân phụ mẫu nên danh độ đời.

     

  18. HỒI HƯỚNG

     

    Phúng kinh công đức thù thắng hạnh,
    Vô biên thắng phước giai hồi hướng,
    Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh,
    Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.

     

     

    Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não,
    Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu,
    Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.
    Thế thế thường hành Bồ tát đạo.

     

     

    Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung,
    Cửu phẩm Liên hoa vi phụ mẫu,
    Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
    Bất thối Bồ tát vi bạn lữ.

     

     

    Nguyện dĩ thử công đức,
    Phổ cập ư nhứt thiết,
    Ngã đẳng dữ chúng sanh,
    Giai cộng thành Phật đạo.

     

  19. PHỤC NGUYỆN

     

    (Phần này tùy mình muốn nguyện gì thì nguyện)

     

  20. TAM QUY Y

     

    Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm. (1 lạy)

     

     

    Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải. (1 lạy)

     

     

    Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại. (1 lạy)

     

     

    Nguyện đem công đức này
    Hướng về khắp tất cả
    Đệ tử và chúng sanh
    Đều trọn thành phật đạo 

     

 
Trích từ: KINH NHẬT TỤNG

 

Biên Soạn: Hòa Thượng Thích Minh Thời

 
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Từ khóa: n/a

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

Trang chủ  |  Giới thiệu  |  Tin tức sự kiện |  Thông báo  |  Văn bản pháp Luật  |  Cư sĩ Phật tử  |  Gia đình Phật tử  |  Tìm hiểu Phật giáo  |  Pháp âm  |  Đời sống  |  Từ thiện |  Gửi bài viết
______________________________________________________________________________________________________________________________________________

Quý vị vui lòng ghi rõ nguồn Phattu.vn khi phát hành lại nội dung từ trang web này